GIA

PHẢ

TỘC

Nguyễn
Trình
Bần
Yên
Nhân
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
Bản dịch tài liệu tiếng Hán của cụ Chánh Tu nói về gia sử của dòng họ, hiện còn được lưu giữ:
"Thủ Độ lộng quyền thoán đoạt Triều trung.
Đoàn đại nhân xả thân vị quốc
Huệ Tôn phong tước Đông Hải Đại Vương
Lưu vong cải Nguyễn tộc hậu thế, tri ân.
Lập miếu kính Thần phụng sự báo ân lưu truyền vạn đại
Chi dân Nhân Nghĩa Hiếu Trung gia truyền Lý tộc
Toàn tộc Nguyễn Đình Trình tự tôn
Đích thứ Lý Công Uẩn huyết thống
Phúc Cường chúc thư
Ất vị niên thu thiên bát nguyệt thập ngũ nhật dạ quang minh Nguyễn Đình Tu tự An Thuận chuyển giao Nguyễn Đình Thủy bảo lưu hậu duệ."

LỊCH SỬ LÀNG BẦN YÊN NHÂN
Theo các tài liệu lịch sử, vùng đất An Nhân, nay thuộc Thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã được dân cư sinh sống, khai khẩn từ thời kỳ các Vua Hùng dựng nước. Nơi đây thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, chủ yếu là đất thịt, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và là một điều kiện để dân cư sớm tập trung đông đúc định cư lập nghiệp. Nhờ truyền thống lao động cần cù và những kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ qua nhiều thế hệ, bản sắc văn hoá của nhân dân Bần Yên Nhân, trong đó có dòng họ Nguyễn Trình ngày càng được vun đắp, phát huy, trở thành một tiền đề quan trọng cho sự phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tại vùng đất Hưng Yên cổ xưa, những cộng đồng người đầu tiên thuộc bộ lạc Dâu đến định cư, vừa trồng lúa nước, vừa trồng dâu nuôi tằm. Thiên nhiên lúc bấy giờ còn là những triền đất, gò đống do sông Hồng bồi tụ nổi lên giữa đầm lầy cỏ lác và lau sậy, dân cư sống thưa thớt với nguồn sống chính là đánh bắt cá và sản xuất nông nghiệp.
Ngay từ thời Văn Lang - Âu Lạc, làng An Nhân thuộc bộ Dương Tuyền (Thanh Tuyền) đến thời kỳ Bắc thuộc toàn bộ nước Âu Lạc được chia thành các quận huyện: thời Tần (221 - 206 trước Công Nguyên), thuộc quận Nam Hải; thời Hán (206 trước Công nguyên- 195 sau công nguyên) thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Ngô thuộc quận Giao Châu; thời nhà Đường (618 - 917) đặt Hải Môn Trấn (gọi là Hồng Châu); thời nhà Minh thuộc phủ Lạng Giang. Vùng đất Hải Dương lúc bấy giờ gồm 3 châu, trong đó có châu Thượng Hồng gồm 3 huyện là: Đường Hào, Đông Yên, Đa Cẩm. Đường Hào chính là tên cũ của Mỹ Hào. Đến đời Lý, làng An Nhân được vua Lý Huệ Tông đặt tên là Tri Giác, thuộc Đường Hào, do Tướng quân Đoàn Thượng trấn giữ. Tri Giác có ý nghĩa là "biết trước" theo câu chuyện về sự tích Đông Hải Đại vương Thượng Đẳng thần. Người dân làng Bần Yên Nhân cũng tự hào vì có vị tướng tài trung thần đời Lý Huệ Tông.
Sau đây là lược sử về Đền Ông Tướng tại Bần Yên Nhân:
Tướng quân họ Đoàn tên Thượng, người Thung Độ huyện Gia Lộc, em nuôi cùng một bà vú với Lý Huệ Tông. Vào thời kỳ nhà Lý suy yếu bị nhà Trần lấn bức, ông trước sau không theo nhà Trần, dựng đồn lũy ở An Nhân thuộc Hồng Châu, liên tiếp chiến đấu cầm cự lại quân nhà Trần. Đất Hồng Châu chính là đất Đường Hào (huyện Mỹ Hào ngày nay). Chiêu bài chính nghĩa "Phù Lý diệt Trần" của ông có hiệu lực thao túng nhân tâm, hùng cứ một phương và thu hút được một phần đáng kể nhân dân một vùng rộng lớn đi theo. Thế lực của ông đã làm cho Trần triều phải lo lắng. Thủ Độ lo sợ liền mở cuộc giảng hòa chia đất cho Đoàn Thượng.
Năm Mậu Tí (1228), Thái sư nhà Trần là Thủ Độ giả vờ giảng hòa, rồi ngầm xui Hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn (tướng cũ nhà Lý) đem đại binh đến đánh úp. Tướng quân đương mải chống với Nguyễn Nộn thì quân nhà Trần từ phía Văn Giang kéo đến. Tướng quân quay sang phía Tây đánh quân Trần liền bị một nhát dao đằng sau lưng chém vào cổ, đầu gần rơi liền cởi thắt lưng quấn lấy cổ, nổi giận phóng ngựa về phía đông. Đến thôn Đông Đạo, An Phú, thấy một cụ già áo mũ nghiêm chỉnh đứng ở bên đường, chắp tay vái nói: "Đức Thượng đế biết tướng quân là người trung liệt nghĩa khí, đã chọn cho tướng quân cái gò đất bên kia là chỗ đất ngàn năm hương lửa, xin tướng quân đừng bỏ qua". Tướng quân xin vâng, tới chỗ gò ấy, xuống ngựa, nằm gối đầu lên ngọn giáo, ngay sau đó mối và côn trùng đùn đất phủ kín thi thể thành ngôi mộ lớn. Dân làng mới lập miếu tạc tượng thờ. Sau này khi đê sông Nhị Hà vỡ, nước tràn vào, miếu bị lở, tượng Ngài trôi về An Nhân. Làng này mới dựng lên đền thờ. Tướng quân Đoàn Thượng là người ANH LIỆT CHÍNH KHÍ được dân chúng ái mộ nên dựng đền miếu, tôn làm Thành Hoàng để thờ cúng, tôn là Đông Hải Đại Vương. Ngài thường hay linh ứng trợ giúp dân chúng, nên dân chúng rất ghi ơn và thờ hương khói quanh năm không bao giờ dứt.
Đền thờ trước đây tọa lạc ở bên cầu Bần, bên cạnh sông, tương truyền rất linh thiêng. Trải qua thời xâm chiếm của thực dân Pháp, khu vực đền thờ bị giặc Pháp tàn phá, sau này hòa bình lập lại được sử dụng làm trường cấp 1 rồi trạm xá xã và bây giờ bị giải tỏa làm đường quốc lộ 5 mới. Theo lời thuật lại của các cụ thì ngôi đền rất thiêng, ai đi qua cũng phải ngả mũ chào nếu không sẽ bị ốm hoặc chết. Câu chuyện trung nghĩa của tướng nhà Lý gắn với vùng đất căn cứ địa An Nhân, Đường Hào đã được ghi chép trong nhiều các tài liệu lịch sử. Theo Viêm Giao Trưng Cổ Ký (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Quốc sử quán Tổng tài Cao Xuân Dục, NXB Thời Đại - TT Văn hóa Đông Tây-2010, Việt Điện U Linh của Lý Tế.
Đến thời Trần, Châu Thượng Hồng thuộc Hồng lộ. Theo “Đại Nam nhất thống chí” thì Đường Hào là tên huyện từ thời Trần trở về trước; đời Lê Quang Thuận thứ X (1469) tách làm huyện, lệ vào phủ Thượng Hồng (nay thuộc Bình Giang). Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), Hải Dương được chia làm 4 đạo, vùng đất Mỹ Hào thuộc đạo Thượng Hồng. Đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đạo Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang, gồm địa phận các huyện Đường Hào, Bình Giang, Cẩm Giàng.
Năm 1885 (Năm Đồng Khánh thứ nhất) vì kiêng từ huý nhà vua là "Đường" huyện Đường Hào (thuộc Hải Dương) được đổi tên thành huyện Mỹ Hào. Trước đó, Chữ "An" cũng được đổi thành chữ "Yên" trong tên Yên Nhân cũng cùng một lý do như vậy.
Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, bao gồm các phần đất được tách ra từ các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Đạo Bãi Sậy chia ra làm 4 huyện: Văn Lâm, Cẩm Lương, Yên Mỹ, Mỹ Hào, thủ phủ đặt ở Bần Yên Nhân (thuộc Mỹ Hào). Huyện Mỹ Hào gồm 4 tổng của huyện Đường Hào còn lại sau khi đã thành lập huyện Yên Mỹ.
Năm 1891 (năm Thành Thái thứ 3), Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định bãi bỏ đạo Bãi Sậy, đưa các huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào của đạo này sát nhập vào tỉnh Hưng Yên.
Trước cách mạng Tháng 8/1945, huyện Mỹ Hào gồm có 6 tổng. Trong đó có Tổng Yên Nhân gồm Phú Đa, Thanh Xá, Yên Lão, Yên Nhân, Yên Tập, Văn Nhuế. Các cụ chánh tổng trong dòng họ Nguyễn Trình đều là người đứng đầu Tổng Yên Nhân này.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, làng Yên Nhân trở thành xã Văn phú gồm các thôn Cộng Hòa, Phú Đa, Văn Nhuế, thuộc huyện Mỹ Hào.
Với sự phát triển kinh tế-xã hội theo hướng đô thị công nghiệp hóa, năm 1989 thị trấn Bần Yên Nhân được thành lập trên cơ sở đơn vị hành chính xã Văn Phú gồm có 5 cụm dân cư là phố Bần, phố Nối và ba thôn Cộng Hòa, Văn Nhuế, Phú Đa với số dân trên 10.000 người, diện tích tự nhiên 521 ha.
Nằm trong câu vè từ đời cổ xưa về các đặc sản vùng Kinh Bắc: : “Dưa La, cà Láng, nem Bản, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”, người dân Bần Yên Nhân rất tự hào là nơi có đặc sản truyền thống Tương Bần nổi tiếng đã có cách đây gần 10 thế kỷ, được truyền từ đời này sang đời khác, cho đến nay vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Tương Bần trở thành thương hiệu của một vùng quê nhiều truyền thống, đậm chất Việt, được tin dùng ở khắp mọi nơi trên đất nước và đang mang hương vị vượt ra ngoài biên giới, trở thành nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Việt Nam. Theo tổ chức kỷ lục Việt nam, Tương Bần xếp thứ nhất trong tốp 10 đặc sản nước chấm và gia vị nổi tiếng của Việt nam. Hiện nay, làng nghề sản xuất tương Bần có 20 cơ sở sản xuất quy mô lớn, mỗi năm sản xuất ra thị trường trên 10 triệu lít. Sản phẩm tương Bần đã được tặng thưởng nhiều huy chương vàng bạc, danh hiệu thực phẩm chất lượng an toàn.
Là một vùng quê có truyền thống lâu đời, làng Bần Yên Nhân cũng có nhiều đền, đình, chùa và các lễ hội văn hóa độc đáo. Sau đây là các ngày lễ giỗ làng Bần Yên Nhân còn lưu giữ đến ngày hôm nay:
- Ngày 10 tháng giêng Âm lịch là lễ kỷ niệm ngày sinh nhật Đức Thánh Bần Ông Tướng (Đông Hải Đại Vương). Sau khi Đền ông Tướng bị giặc Pháp tàn phá, việc phụng thờ Đông hải đại vương được chuyển về Đình làng Bần Yên Nhân và cũng là thành hoàng làng.
- Ngày 11 tháng tư Âm lịch là ngày hội làng Bần Yên Nhân có lễ rước trọng thể theo nghi thức truyền thống giao hiếu với làng Yên Phú. Làng có nhiều ruộng chia cho các phe giáp, lấy hoa lợi sửa lễ và chi phí các trò vui chơi như hát chèo, vật, chọi gà, thả diều, cờ bỏi, lên đồng hầu bóng, xin thẻ,… Không ai phải đóng góp gì. Các quan viên từ 18 tuổi trở lên đều được ăn uống cơm rượu.
- Ngày 25 tháng ba Âm lịch là ngày giỗ gần ba chục vị đầu lĩnh trụ cột của khởi nghĩa Bãi Sậy bị bắn chết ở gốc Đa chợ Hồng Châu (chợ Bần ngày nay).
Từ ngày hòa bình lập lại 1954-1955, cải cách ruộng đất, ruộng công tư không còn, các ngày lễ hội cũng bị mai một, không còn như xưa.
-Theo Viêm Giao Trưng Cổ Ký (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Quốc sử quán Tổng tài Cao Xuân Dục, NXB Thời Đại - TT Văn hóa Đông Tây-2010, Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên - Nguyễn An Nhân Nguyễn Viết Thanh biên soạn - Xem thêm và trao đổi tại địa chỉ www.facebook.com/nguyentrinhBYN.
Gia Phả Nguyễn Trình Bần Yên Nhân
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Nguyễn Trình Bần Yên Nhân.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Nguyễn Trình Bần Yên Nhân
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.