GIA

PHẢ

TỘC

CAO
tại
thôn
Trai
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: Cao Đình Bao
Đời thứ: 7
Người trong gia đình
Tên Cao Đình Dao (Nam)
Tên thường cụ Đồ
Tên Tự
Ngày sinh 1783
Thụy hiệu Thuần Hậu  
Hưởng thọ: 56  
Ngày mất 1839  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
Đời thứ tám -------------------------- - Ông Cao Quý húy Đình Dao, thụy hiệu là Thuần Hậu phủ quân, là con trưởng của ông Huệ Hiên. Sinh ngày 20 tháng 12 năm Quý Mão (1783), thiên tư hào hùng minh mẫn, lúc nhỏ học hành cần cù, trúng Hiệu sinh triều Lê Cảnh Thịnh (1793-1801) thứ 9 (1801), khoa Tân Dậu, lúc 19 tuổi. Đến năm Nhâm Tuất (1802) khi nhà Nguyễn Bình định Bắc Kỳ, ông đem nghĩa sĩ phò tá đóng tại thành Hà Nội, giữ chức Đội trưởng có Vũ Thuộc. Song ông tính tình lỗi lạc, không yên với chức phận nhỏ nhoi, thường hay chiêu nạp anh hùng hào kiệt, giao du rộng rãi, các bạn tang bồng không ai là không biết tiếng. Đến năm 23 tuổi, hàng tổng mến mộ suy tôn ông làm Trùm tổng Hội tư văn. Bấy giờ vào năm Gia Long thứ tư (1805). Năm Bính Tý, bà tỉ Diệu Hinh mất, lúc ấy ông 34 tuổi. Năm Bính Tuất, lúc ông 44 tuổi thì ông khảo Huệ Hiên qua đời. Ông tạm quân ở nhà 3 năm, các đồ tế lễ nhất nhất đều đầy đủ chu đáo, bạn bè làng xóm ai cũng khen ông là người chí hiếu. Ông lấy con gái họ Phạm ở thôn Nguyễn, xã Báo Đáp, huyện Thượng Nguyên, sinh đẻ mười lần, sau thành gia thất được 9 người. Lại nói, ông có tên chữ là Tự Tào, sau khi cha mẹ mất, do việc ma chay quá linh đình, nên từ đó gia sản kém sút dần, song tính ông lại trọng nghĩa khinh tài, nào là bán ruộng để sửa chùa đúc tượng cũng có, nào dỡ nhà để lấy củi nấu cao nấu thuốc cho bạn bè cũng có… Ruộng đất của ông có đến hơm hai ba mươi mẫu mà chỉ chưa đầy mươi năm đã khánh kiệt. Ấy vậy mà không hề hối hận. Ngày mồng 7 tháng 4 năm Kỷ Hợi thì ông mất, thọ 57 tuổi. Nay may mắn nhờ quỷ thần phù hộ, cửa nhà lại được phong quang, dư dật, có lẽ là hoàng thiên không phụ cái tâm của ông chăng? Mộ ông táng ở xã Hưng Đễ, sau đưa về táng ở trước mả thôn nhà. - Bà tỉ vợ cả của ông là họ Phạm Quý, huý là Hồng, hiệu là Diệu Cung nhụ nhân. Bà là con gái thứ hai của ông Phạm Quý, tự là Bá Khiêm, hiệu Hoà Nhã, người thôn Nguyễn xã Báo Đáp, là Trung bá tước triều Tiền Lê. Bà sinh ngày mồng 8 tháng 11 năm Đinh Mùi, đúng vào năm Lê Chiêu Thống thứ nhất. Bà lấy ông nhà ta năm 14 tuổi, năm 16 tuổi bà sinh ông Thuần Lương, 18 tuổi sinh Thị Diên, 21 tuổi sinh Thị Uyển, 24 tuổi sinh ông Phúc Thận, 27 tuổi sinh Thị Loan, 29 tuổi sinh Đình Diệm, 32 tuổi sinh ông Phúc Chỉ, 37 tuổi sinh Thị Ương, 37 tuổi sinh ông Phúc Thịnh, 40 tuổi sinh ông Thuần Trực. Tính bà nhân mà trí, khéo mà thực, giúp ông nhà ta bằng đức độ, giúp các con đều nên người, ứng xử với nội ngoại đúng mực không hề có điều tiếng gì. Bà qua đời ngày 20 tháng 7 năm Kỷ Dậu, thọ 62 tuổi. Bấy giờ quân tạm ở nhà theo lệ làng, đến tháng 11 mới đưa bà ra đồng, táng ở khu ruộng huệ, giáp Đông, xứ Trước Mã thôn nhà. Nguyên khi bà mất, ông Thuần Lương có nhờ một người họ ngoại là ông đồ Doãn tìm hộ một huyệt đất tốt ở ruộng nhà Phạm Đoàn, người chồng nhà này bằng lòng nhưng người vợ thì lại có ý tiếc. Gia nhân báo cho ông nhà ta biết, ông nhà ta bảo rằng: Phúc thiên đãi phúc địa, phúc địa đãi phúc nhân. Nếu trời cho thì người ắt cho. Kẻ kia đã như thế thì ta cứ táng bà ở thửa ruộng cạnh đó, đợi khi nào đoạn tang thì tìm chỗ đất tốt mà cải táng vậy. Các chú bác họ hàng đều theo lời. Từ đó trong họ được an khang, nên cứ để nguyên ở đấy không thay chỗ nữa. Nhưng đến tháng 6 năm Ất Sửu, cha ta bị đau mắt, bấy giờ gặp Cai tổng tiệp ở xã Đồng Mỹ và ông Hương Sáu ở xã Nguyệt Mại đều bảo ngôi mộ đó nên chuyển, thậm chí có thể đã bị hỏng xương. Thế là nhà ta ngay hôm đó phải làm lễ ở nhà từ đường, rồi tiến hành cải táng. Ai dè khi mở nắp quan thì tơ hồng kết đầy, do đó lại phải dùng keo gắn lại như cũ. Chỉnh thật là: Tự cổ phúc nhân phùng phúc địa Có tâm cơ sự quả hà vi. (Từ xưa đất phúc gặp người nhân, Cố kiếm hoài công kiếm được nào ? Từ đó, ai cũng bảo đấy là mảnh đất trời cho. Ngôi mộ dựa vào phương Bắc, ngoảnh mặt hướng Nam, mé trước có Hoả tinh, mé sau có con Thủy, hai bên tả hữu có hai con Mộc song song đối nhau.

Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình

Các anh em, dâu rể:
   Cao Đình Thao
   Cao Đình Tốn
   Cao Văn Mễ
   Cao Đình Lầm
Con cái:
       Cao Đình Lân
       Cao Đình Khôi
       Cao Đình Du
       Cao Đình Kỳ
       Cao Văn Ky
Gia Phả; CAO tại thôn Trai
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc CAO tại thôn Trai.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc CAO tại thôn Trai
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.