Đời thứ chín
----------------------------------------------------
- Ông Cao, húy Đình Lân, hiệu Thuần Lương phủ quân, là con trưởng ông Thuần Hậu, sinh ngày 17 tháng 9 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Gia Long thứ nhất (1802) Nguyên tên ông là Lân, sau đổi lấy tên người em là Văn Khôi để đi lính. Tính ông thông minh cần mẫn, lúc nhỏ ham học, nhưng đi thi mấy khoa không đỗ, ông phẫn chí bỏ nghiệp học đi lính. Nhưng rồi sáu năm mãn hạn, ông lại giả bệnh về làng làm chức Tri thu. Gặp lúc vận bĩ nhà nghèo, phải buôn bán thêm để kiếm ăn. Ông giao du với bạn bè rộng rãi, lịch thiệp. Việc hôn nhân của ông cũng khá long đong, qua ba bốn phen kén chọn vẫn không thành. Lại thêm ông Huệ Hiên khó tính, mỗi khi chọn được đám nào thường xét nét mặt này mặt kia, rốt cuộc lại thôi. Mãi về sau ông mới lấy người con gái họ Đỗ, xã Giang Tả, huyện Thượng Nguyên, sinh được 3 trai. Đến ngày 21 tháng 3 năm Kỷ Mùi thì ông mất, thọ 58 tuổi. Mộ táng ở góc Đông Bắc, xứ Cát Cao - Cồn Phương, dựa vào phương Đông Bắc, ngoảnh mặt hướng Tây Nam.
- Bà tỉ chính thất của nhà họ Cao là ông Đỗ Quý, húy là Truật, hiệu Từ Nghiêm nhụ nhân.
Bà là con gái thứ của ông Cai tổng Đỗ Đức Vọng, người xã Giang Tả, huyện Thượng Nguyên. Bà sinh năm Canh Ngọ, không rõ ngày tháng, năm 31 tuổi lấy ông Thuần Lương nhà ta, sinh ra ông Phúc Hoà. Năm 34 tuổi, sinh ông Thuần Dũng. Năm 37 tuổi sinh Văn Vũ. Đến tháng 3 năm Kỷ Mùi, do bệnh dịch thời khí lớn, bấy giờ ông bị bệnh và mất ngày 21, bà bị bệnh và mất ngày 28, hưởng thọ 50 tuổi, mộ của bà ở mé tây trước mã mộ tổ ở thôn này, ngoảnh mặt hướng Tây.
- Ông Cao Quý húy là Khôi, tên chữ là Văn Lân, hiệu là Phúc Thận phủ quân, nguyên là Hương mục xã này, từng là Thập lý hầu, Tiên chỉ, Hội trưởng hội Tư văn. Ông là con thứ hai của ông Thuần Hậu. Nguyên trước tên là Đình Khôi, sau đổi gọi tên người anh là Văn Lân. Lúc ông còn trẻ, gặp khi có cuộc biến động, cha mẹ gửi ông cho người em rể là tri phủ Lạng Giang, ông đã trải nhiều địa phương ở vùng Bắc Ninh. Sau thôn ta thấy ông là người hiểu nghĩa lý, bèn tiến cử làm chức tri thu. Từ đó ông thăng chức Phó Lý, rồi Lý trưởng, trở thành hương mục của thôn nhà, là Tiên chỉ của xã. Cửa nhà con cháu ngày một thịnh vượng, giàu có. Các cường hào trong quận hạt đều ca tụng ông là tay cự phách. Cái có tái tạo của gia tộc nhà ta đều khởi đầu từ ông vậy ! Ông lấy con gái nhà họ Đỗ ở thôn Phú Gia, lại lấy tiếp con gái nhà họ Đoàn ở thôn Chùa. Con cái cả thảy được 11 người. Ông là người có hình dung đầy đặn, tính nết độ lượng khoan dung. Ông thường hay giúp đỡ những nhà có tang ma, thiếu đói. Giao du với bạn bè đều thủy chung như một, chưa bao giờ của chuyện dối trá. Kẻ ăn người làm trong nhà nhỡ có việc sai trái, ông chỉ lấy lời lẽ ôn hoà để khuyên bảo, chứ không hề dùng tới roi vọt. Vì vậy ai cũng quý trọng ông.
Nghe nói, bọn cường hào trong xã thường ức hiếp đè nén dân; nhưng khi ông trở về trên thì dùng lý chế ngự bọn cường hào, dưới thì lấy việc cần lao để giúp mọi người, nhờ vậy trong vòng vài chục năm trở lại, xóm làng đã trở nên trù phú vui vẻ. Do đó khi ông mất, ai cũng than tiếc, đã bảo nhau ghi công lao của ông vào bức trướng để tới phúng viếng, lời lẽ vô cùng bi thiết.
Niên phả:
Bắt đầu từ năm Canh Ngọ đến năm Nhâm Ngọ, theo niên lịch 4 đời vua Gia Long, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.
- Khi một tuổi, năm thứ 9 đời vua Gia Long triều Nguyễn ngày 12 tháng 10, sinh (1810).
- Năm 4 tuổi, em gái là Thị Loan sinh,
- Năm 7 tuổi, tổ tỉ là Lê Thị mất.
- Năm 8 tuổi, triều đình đắp đường cái quan, từ cửa Nam thành Nam Định đến đồn Bình Hải.
- Năm 9 tuổi, em trai là ông Phúc Thai, húy là Du sinh.
- Năm 11 tuổi, em gái là Thị Ương sinh.
- Năm 14 tuổi, em trai là Phúc Thịnh húy là Kỳ sinh.
- Năm 17 tuổi, Minh Mệnh thứ 7, em trai là ông Thuần Trực, húy là Cơ sinh. Cùng năm này, Tổ khảo là ông Huệ Hiên mất.
- Năm 26 tuổi, lấy bà cả là Cao thị.
- Năm 27 tuổi, sinh con gái là Thị Viết.
- Năm 29 tuổi, sinh con trai là ông Mạnh Phủ, húy Can.
- Năm 30 tuổi, Hiển khảo là ông Thuần Hậu, húy Đình Dao mất.
- Năm 31 tuổi, sinh con trai thứ là ông Thuần Trí, húy Chương.
- Năm 33 tuổi, xã bầu làm Phó lý. Cùng năm sinh con gái là Thị Hữu.
- Năm 34 tuổi, bà bé họ Đoàn sinh con.
- Năm 35 tuổi, sinh con gái
- Năm 38 tuổi lấy bà bé họ Đỗ
- Năm 39 tuổi sinh con gái là Thí Chí. Cùng năm bà bé sinh ông Thuần Lễ, húy Lâm.
- Năm 40 tuổi, Hiển tỉ Phạm Thị mất
- Năm 41 tuổi, Tự Đức thứ 3, xã bầu làm Lý trưởng. Sau đó trong tổng cùng Quan huyện muốn tiến cử làm Cai tổng, nhưng em ông xem tử vi đẩu số không lợi ở đường quan lộc, cho nên không dám nhận.
- Năm 44 tuổi, Tự Đức thứ 7, ông sáng lập văn đàn của thôn nhà.
- Năm 48 tuổi, theo lệ hễ ai có liên quan đến việc cưới xin ma chay trong bản xã thì không được làm tổng lý, bấy giờ con trai thứ của ông lấy tên con gái Cai Tổng cùng xã, do đó ông được lui về nghỉ.
- Năm 50 tuổi, sinh cháu đích tôn là Vĩ.
- Năm 51 tuổi, ông dựng nhà từ đường của họ nhà. Cùng năm này, bà cả Cao thị mất, và bà ba họ Đoàn về với ông.
- Năm 53 tuổi, ông lập ra chợ cho thôn nhà (1863).
- Năm 54 tuổi, bà ba sinh Văn Hành. Đó là vào năm Tự Đức 16.
- Năm 56 tuổi xây cầu đá cho thôn nhà.
- Năm 57 tuổi bà ba sinh con gái là Thị Lớn
- Năm 59 tuổi sinh con gái là Thị Hương
- Năm 60 tuổi, ông sửa chùa Kim Trai cùng gác chuông, tạo thêm toà Cửu Long, cùng các tượng Phật Di đà, quan Âm, Thế Chí, và bia cầu đá của thôn.
- Năm 61, bà hai họ Đỗ, con trai thứ húy Chương hiệu là ông Thuần Trí, cháu húy Hổ hiệu là ông Thuần Dũng qua đời.
- Năm 62 tuổi sinh con gái Thị Chi
- Năm 65 tuổi sinh con trai Văn Cung.
- Năm 67 sinh con trai Văn Xương.
- Năm 69 dựng cầu đá xã Vân Đồn huyện Thượng Nguyên, cùng miếu Âm hồn và nghĩa phần ở thôn nhà.
- Năm 71 tuổi, sinh con trai (năm sau, người con này ốm chết).
- Năm 72 tuổi, con trai thứ ba húy là Lâm hiệu Thuần Lễ mất.
- Năm 73 tuổi, bấy giờ là năm Tự Đức 35 (1883) quân Pháp hạ thành Hà Nội, tháng 8 có sao chổi, ngày mồng 7 tháng 11, ông chống gậy đi dạo ngoài cổng thì bỗng bị mệt, đến ngày mồng 9 thì mất. Quàn tạm đến hạ tuần tháng 12 mới đưa ma; nhờ một người ở xã Đồng Ngôi nguyên là tri phủ Anh Sơn đề giúp thần chủ, táng tại ruộng chùa của chùa Đống Cao xã nhà; sau cải táng ở đồng sau thôn Giáp Nhị xã nhà; sau cải táng ở đồng sau thôn Giáp Nhị xã Trực Chính cùng trong tổng; rồi lại chuyển mộ về khu ruộng huệ ở thôn Tam Giáp xã Cổ Nông.
- Bà tỉ húy Nguyên hiệu Từ Nhân nhụ nhân, chính thất của nhà họ Cao.
Bà là con gái ông Cao tên chữ là Đình Liêu, người cùng thôn. Bà sinh năm Gia Long 10, năm 25 tuổi về lấy ông nhà ta. Năm 26 tuổi sinh Thị Viết. Năm 28 tuổi sinh trưởng nam Văn Can. Năm 31 tuổi sinh Văn Chương. Năm 33 tuổi sinh Thị Hữu. Năm 33 tuổi sinh Thị Đỏ. Năm 38 tuổi sinh Thị Chí. Bà là người hiền hậu, hoà thuận với mọi người, coi con cái của anh em như con cái của mình, coi con cái của phòng khác sinh ra cũng như con mình đẻ ra, có cái phong thái của tỉ tổ Diệu Hinh.
Bà mất ngày 27 tháng 8 năm Canh Thân, thọ 50 tuổi. Mộ táng ở xứ Cát Cao thôn nhà. Sau chuyển về xứ Cồn Trúc, thôn Giáp Nhị, xã Trực Chính cùng tổng.
- Bà tỉ Đỗ Thị, húy Nghiên, hiệu Từ Nghĩa nhụ nhân là bà bé nhà họ Cao.
Bà là con gái ông Đỗ Đình Lộc, thôn Phú Gia, xã Giang Tả, huyện Thượng Nguyên. Trước bà lấy người ở thôn Nguyễn, xã nhà, sinh được một con gái, nửa chừng đứt dây tơ, đến năm 39 tuổi về ở với ông nhà ta, năm sau đó sinh Văn Lâm, hiệu là ông Thuần Lễ. Năm Canh Ngọ, ngày 24 tháng 7 bà mất, hưởng thọ 62 tuổi. Mộ táng ở xứ Mả Bói (Chim Bói cá); đến năm Tân Tỵ chuyển về khu ruộng Giáp Đông, xứ Trước quán; rồi đến năm Nhâm Dần lại chuyển về táng ở ruộng huệ, xứ Cồn Bến - Ba Giáp, thôn nhà.
- Bà ba nhà họ Cao là Đoàn Quý Huyên, hiệu Diệu Xuân nhụ nhân.
Bà là con gái trưởng ông Đoàn Đình Căn thôn Chùa xã này. Bà sinh năm Quý Mão, không rõ ngày tháng. Năm 18 tuổi, nhân bà Từ Nhân mất, ông nhà ta lấy bà về làm vợ kế; năm 21 tuổi bà sinh Văn Hành. Năm 24 tuổi sinh Thị Lớn. Năm 26 tuổi sinh con gái Thị Hương. Năm 29 tuổi sinh Thị Chi. Năm 32 tuổi sinh Văn Cung. Năm 34 tuổi sinh Văn Xương. Năm 38 tuổi lại sinh một trai. Kịp đến khi bà 40 tuổi thì ông nhà mất, bà liền quy y cửa Phật, tu ở chùa Thiền Lâm, lấy hiệu là Diệu Xuân. Từ đó bà tụng kinh niệm phật, sớm tối không mỏi mệt. Tới ngày 28 tháng 3 năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6, bà đang tụng kinh thì bỗng qua đời, thọ 52 tuổi. Mộ táng tại xứ Cồn trước mả thôn nhà.
- Ông Khảo là Cao Quý huý Văn Du hiệu Phúc Thai phủ quân.
Ông là con trai thứ ba của ông Thuần Hậu, sinh năm Gia Long 16, lấy con gái họ Nguyễn ở thôn Nguyễn xã nhà, sinh được 2 trai 2 gái, con gái trưởng là Thị Thoa, con trai thứ hai là Văn Nhĩ, con trai nữa là Văn Chân, con gái út là Thị Hợi. Giữa chừng bà này mất, ông lại lấy bà kế là Thị Hoàn, không đầy hai ba năm sau, bà này cũng qua đời, chưa có con. Từ đấy ông ở vậy cùng các con. Ngày 16 tháng 6 năm Kỷ Hợi, ông mất, thọ 83 tuổi. Mộ táng ở xứ Trước mả, mé nam mả Tổ, sau chuyển về cánh đồng Tây nam ở xứ Cồn quán.
- Bà tỉ chính thất nhà họ Cao là Nguyễn Quý Trâm, hiệu Từ Phác nhụ nhân.
Bà là con gái cựu Lý trưởng Nguyễn Đình Triều, ở thôn Nguyễn cùng xã. Bà sinh năm Bính Tuất, khi lấy ông nhà ta khá vất vả về đường con cái, được hai trai hai gái. Bà mất ngày 22 tháng 6 năm Ất Hợi, thọ 50 tuổi. Mộ táng ở xứ Trước Mả.
- Ông Khảo húy là Cao Kỳ hiệu Phúc Thịnh phủ quân, thi hương trúng Biên bạ, là hội trưởng Hội tư văn của xã.
Ông là con thứ tư của ông Thuần Hậu, sinh năm Quý Mùi, lấy con gái họ Nguyễn ở thôn nhà; sinh con trai trưởng là Văn Thọ, con trai thứ là Văn Bích, rồi Văn Phan, Văn Trân, Văn Bổng, con gái là Thị Gái. Sau ông lại lấy con gái họ Phạm, sinh con trai là Văn Bính, Văn Vinh, con gái là Thị Nhàn. Đến ngày 25 tháng 9 năm Nhâm Dần ông Mất, thọ 80 tuổi. Mộ táng ở xứ Cồn Quán.
- Bà tỉ chính thất nhà họ Cao là Nguyễn Thị Nhu, hiệu Diệu Hoà nhụ nhân.
Bà là con gái thứ ông Nguyễn Đình Quỳ ở thôn nhà, khi lấy ông nhà ta cũng vất vả về đường sinh nở, sau được 5 trai 1 gái. Con trưởng là Thọ, con thứ là Bích, rồi Phan, Trân, Bổng, con gái là Thị Gái. Bà thích đạo Phật, từng là Hội trưởng hội Đàn Na. Sau quy y chùa Phúc Lâm, hiệu Diệu Hoà, bà mất ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Mão, thọ 53 tuổi.
- Bà thứ Phạm Thị Niệm.
- Ông Khảo là Cao Quý, húy Văn Cơ, hiệu Thuần hực phủ quân.
Ông là con út ông Thuần Hậu, sinh năm Bính Tuất, bản tính thông minh, nếu được học hành đầy đủ có thể thành đạt lớn lao. Ông từng đọc rộng ngoại thủ; y thuật, phù thủy đều thông hiểu, từng mở trường dạy học, nhiều học trò thụ nghiệp. Ông lấy con gái họ Phạm ở thôn Nguyễn xã Báo Đáp, sinh được 3 trai 5 gái. Đầu tiên sinh con gái là Thị Vạn, rồi Thị Nhã, rồi Thị Cẩn, rồi sinh con trai là Quang, là Chiêu, lại sinh gái là Thục, sau lại sinh trai là Cửu, rồi lại sinh gái là Huệ. Ông mất ngày mồng 7 tháng 4 năm Đinh Sửu, thọ 52 tuổi.
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc CAO tại thôn Trai.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc CAO tại thôn Trai
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.