GIA

PHẢ

TỘC

họ
Đặng
thôn
Cự
Đình-Chi
cụ
Kham
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
Sơ lược lịch sử họ Đặng :
Theo cuốn “Các nhà khoa bảng Việt Nam” của Lê Đức Kế, từ 1075 đến 1919, dòng họ Đặng lý Trần có 65 cụ đậu Tiến sỹ. Dưới thời Nguyễn theo “Quốc triều hương khoa lục” của Cao Xuân Dục thì trong các khoa thi Hương có 151 cụ đỗ cử nhân.
Sở dĩ họ Đặng ta biết rõ cội nguồn như trên là nhờ các cụ nghĩ đến muôn đời con cháu mai sau nên đã soan lập nhiều bộ phả tộc sớm. Mặt khác trong quốc sử cũng ghi nhiều công lao của các cụ, mà các tư liệu này còn được lưu giữ thành tài sản quốc gia và là di sản cao quý của nhiều chi họ Đặng.
Trong sắc phong còn lưu lại và ghi trong gia phả các chi họ Đặng thì họ ta có 34 Quận công, 7 Tạo sỹ (Tiến sỹ về võ). Trong khoa bảng có 2 cụ đậu Trạng nguyên là Đặng Công Chất và Đặng Huấn; 13 cụ đậu thủ khoa cử nhân và 25 cụ là danh nhân văn hóa được ghi trong Bách khoa toàn thư.
Năm Giáp Ngọ đời Lê Thịnh Đức thứ 2 (1654) cụ thượng thư Quận công Đặng Thế Khoa là hậu duệ đời thứ 7 của cụ Đặng Trần Lâm sọan bọ phả tộc. Năm Bính Dần (1686) cụ Quốc lão ứng Quận công Đặng Đình Hiến, trung hầu Đặng Đình Quỳnh vâng lênh cha là ứng quận công Đặng Đình Tướng dựa vào các bộ phả trước lập thành “Đặng Gia Phả Ký Tục Biên”. Năm Nhâm Tuất ( 1792) cụ Đại Đô Đốc Đông lĩnh hầu Đặng Tiến Đông lại soạn 1 bộ gồm 6 quyển nhan đề “ Đặng Gia Phả Hệ Toàn Chính Thực Lục” và được cụ thi trung Đại Học Sỹ, Tinh phái hầu NGô Thì Nhậm (Đồng liêu với Đại Đô đoc Đặng Tiến Đông) đề tựa.
Những bộ phả trên hiện còn lưu giữ tại viện khoa học xã hội Việt Nam ký hiệu A133/1-3.
Năm Mậu dần (1938), cụ Đặng Văn Phái tổng hợp hai quyển “Đặng Gia Phả Ký Tục Biên” và “ Đặng Gia Phả Hệ Toàn Chính Thực Lục”, tham khảo một số danh bút, so sánh thêm với Quốc sử, bổ sung dương lịch soan thành 1 bộ phả bằng chữ quốc ngữ (có chua thêm chữ Hán) nhan đề là “ Đặng Thế Gia Phả Ký”.
Do tổ tiên ta có nhiều công lao với dân, với nước, nhiều địa phương đã lập đền thờ, tôn thờ là Thành Hoàng làng- Một số đình Làng, đền thờ đó đã được Bộ văn hóa thông tin cấp bằng di tích lịch sử văn hóa như Đình Thịnh Phúc, Giẽ Hạ, Phú Yên, Phú Xuyên, Hà Tây; Đình Yên Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội. Đền thờ Doanh quận công Đặng Thế Tài ở Tỳ Bà, Bắc Ninh.

Dòng họ Đặng tại Cự Đình, Việt Hưng, Văn Lâm, Hưng Yên:
Làng Cự Đình Nguyên trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, phủ Thuận an, huyện Văn Giang, thôn Cự Đà, sau đổi phủ Thuận An ra Thuận Thành, thôn Cự Đà ra Cự Đình. Năm Thành Thái thứ 5 (1893), đổi thuộc tỉnh Hưng Yên, phủ Mỹ Hào, huyện Văn Lâm; Sau huyện Văn Lâm tách rời phủ Mỹ Hào thành một đơn vị trực thuộc tỉnh Hưng Yên. Theo các gia phả mà các chi họ Đặng tại Cự đình còn giữ được thì thủy tổ Chi họ Đặng ở Cự Đình là cụ Đặng Phúc Thông. Cụ Phúc Thông là hậu duệ của họ Đặng gốc Trần bắt đầu từ ba cụ Đặng Trần Cận, Đặng Trần Du và Đặng Trần Lâm. Theo các cụ truyền khẩu lại thì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, hàng năm vào ngày giỗ tổ đều có rước cụ về phủ thờ Lương Xá – Huyện Chương Mỹ Tỉnh Hà Tây được xây dựng từ năm Ất sửu 1685.

Tựa Gia Phả họ Đặng của cụ Phái Đình Hầu ( đời thứ 7)- Ghi tại kinh đô Thăng Long, mùa thu năm Đinh Vị ( 1787) triều vua Lê Chiêu Thống thứ nhất : "Trước nhà ta bên nội ngoại có gia phả cả. Kịp đến năm Canh thân(1740),Tân Dậu ( 1741), Nhâm Tuất (1742) có loạn. Bấy giờ minh công minh chúa, đại đoàn đạ định, giặc lớn là những lũ tên Châu, Chụ, Hy, Chất xâm cướp lại thêm dịch bệnh. Tháng 6 năm Qúy Hợi (1743) phải giặc chất vào phá đốt dân cư, thần từ…. người già, người trẻ phải đem nhau đi ở phía Tây nam, trải mấy năm Tý. Sửu, Dần, Mão, Thìn, tỵ ( 1744-1749). Gia phả lúc ấy đều mất, đến năm Canh Ngọ (1750) mới tìm lại được.
Ta nhờ tổ ấm may được làm quan, nhân nghĩ “ người có tổ tôn như sông có nguồn gốc”, mùa thu năm Đinh Vị ( 1787) cùng trong họ các chi đều lấy sáu đời về trước, nhưng đời loạn vết đã xa, muốn truyền cũng không xét được và xem trong sách cũng có nói “ Ngũ đại mai kỳ chữ” thời nay xét định gia phả cũng hợp cổ lệ, mới biên chép từ ông tổ ngũ đại trở xuống, thế thứ bên nội, bên ngoại, mồ mả gần xa, cùng tên thụy, tên hiệu, ngày sinh, ngày húy, giòng giõi các chi… định làm một quyển gia phả khiến muôn ngàn năm về sau biết là con ngành ấy, cháu ngành ấy… truyền để lâu dài vậy."

Tựa Gia Phả họ Đặng của cụ Định Tri Công ( đời thứ 11) - Bính thân, tháng 3 năm Thành Thái thứ 8 ( 1896): “Nước có sử chép, nhà có phả ghi” thông lệ trong nước là vậy. Họ Đặng ta ở làng Cự Đình đã lâu, bên nội bên ngoại gia phả trước có đủ, nhưng khoảng trung gian gặp lọan thất lạc mất. Trước ông tổ ta là Phái Đình Hầu cùng trong họ các chi xét chép gia phả sáu đời về trước, nhưng đời loạn vết đã xa, muốn truyền cũng không xét được nên chép từ năm đời trở xuống như cụ Phúc Thông đã làm trước vậy.Đến nay là mười một đời, ta nối chép thế thứ chi mình, cả bài tựa của cụ Phái Đình Hầu để đầu sách gia phả để cơn cháu biết trước sau vây"

Năm 2002, các con cháu chi cụ Toản họ Đặng Cự Đình đã tiến hành họp bàn về việc “Giao đất thờ cúng và bàn thờ tổ tiên của chi”. Sau khi bàn bạc, các thành viên trong hội đồng gia tộc thông nhất giao cho gia đình ônng Đặng Lợi Hãn (đời thứ 13) quản lý bàn thờ cụ Án (Cụ tổ đời thứ 9) để làm nơi hàng năm gia tộc về thắp hương các cụ. Thực hiện nghị quyết của hội đồng gia tộc, năm 2007, các con cháu cụ Toản dưới sự chủ trì của con/cháu đời thứ 14 là Đặng Lợi Hoan đã hoàn thành việc xây dựng mới nhà thờ cụ Án tại số nhà 19/120 – Trần Cung-Hà Nội, chính thức khai lễ vào ngày 16 tháng 10 năm Đinh Hợi (2007).
Xét thấy đây là dịp để toàn thể con cháu trong chi/họ thể hiện lòng tôn kính tổ tiên, con/cháu đời thứ 14 là Đặng Lợi Hoan đã biên tập lại “Phả chép thế thứ họ Đặng” trên cơ sở tổng hợp thông tin từ :
- Phả Ký họ Đặng được ghi chép bởi cụ Đặng Lợi Hàm.
- Hệ thống Phả Đồ họ Đặng được tập hợp bởi cụ Đặng Vũ Hiệp.
- Phả Ký họ Đặng được ghi chép bởi cụ Đặng Hanh Kiên bổ sung bởi cụ Đặng Trinh Kỳ;
- Gia phả nhánh Đặng Nghiêm và
- Các bản dịch từ các bản gia phả viết bằng chữ Hán nôm hiện còn lưu giữ trong các gia đình họ Đặng.
Hy vọng Gia Phả này sẽ làm cho con cháu họ Đặng hôm nay và mai sau nhớ đến công lao của tổ tiên đã xây dựng, bồi đắp nên dòng họ mà quan tâm hơn đến việc duy trì mối tình thân tộc.


Họ đặng thôn Cự Đình, dòng họ khoa bảng


Nguồn www.vanhien.vn và http://www.hodangvietnam.com/


        Theo cuốn Gia phả Họ Đặng thôn Cự Đình xã Việt Hưng huyện Văn Lâm viết bằng chữ Hán Nôm thì cụ Đặng Phúc Thông là tiên tổ. Tính đến nay  đã 15 đời lập nghiệp và phát triển. Trưởng ban liên lạc Họ Đặng, cụ Đặng Quốc Bản và ông Đặng Văn Tôn, bí thư chi bộ thôn Cự Đình cho biết, số người thuộc họ Đặng Cự Đình định cư ở quê và ở thành phố Hà Nội, ở một số địa phương, một số quốc gia có tỷ lệ 300/500  nhân khẩu.

 Dòng họ hiếu học và thành đạt.

Dòng họ Đặng ở đây sống bằng nghề nông nhưng có chí học tập thành danh. Trải 7 đời phấn đấu, đến đời thứ 7 mới có người nổi tiếng khắp vùng về học rộng, tài cao, được mời vào hội Tư Văn, được Vua ban tặng tước Phái đình hầu, Trung đẳng phúc thần. Hậu duệ nhắc đến cụ, thường gọi là cụ Hầu nhưng tên cúng cơm là Đặng Duy Chiểu.  Ngôi nhà thờ cụ do Vua cho xây từ thời Lê Trung Hưng, trùng tu năm Duy Tân 8 (1914) tại địa phương vẫn được hương khói. Sang đời thứ 9, thứ 10 có 2 người đỗ đại khoa, cụ Đặng Văn Khải, sinh năm 1794 đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sỹ xuất thân năm Minh Mệnh 7 (1826). Gia phả ghi khá chi tiết về hành trình làm quan của cụ Khải. Cụ từng giữ chức Thái thường tự thiếu khanh, tước Thuận xuyên bá, 2 lần đi sứ, lần làm Phó sứ sang nhà Thanh Trung Quốc, có lỗi công phải đi Nam Dương (Indonesia). Khoảng năm 1831 đến Gia-Các-Ta, được ít lâu thì lâm bệnh rồi mất, hưởng dương 38 tuổi, được hỏa thiêu rồi đưa tro cốt về quê nhà. Có lẽ khi cụ Khải thực hành công vụ ở Indonesia đã tạo dựng được mối quan hệ hữu hảo 2 nước nên trước thời tỉnh Hải Dương Hưng Yên sáp nhập có nhà ngoại giao làm việc ở Đại sứ quán Indonesia tại Việt Nam đã nhờ chính quyền tỉnh đưa đường về thăm quê hương Đặng Văn Khải. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ tập thơ Lộng Đình Đặng hội nguyên thi tập của Đặng Văn Khải. Tập thơ gồm các quyển: Hoa trình lược ký (52 bài); Dương hành thi tập (35 bài) và Thận đình anh ngữ (101 bài). Mới 6 năm làm việc quan và mất ở độ tuổi trung niên nhưng dấu ấn về văn chương và ngoại giao thì có lẽ còn mãi. Ngày tế ông về với tiên tổ, Tuần phủ phủ Định Tường Tô Ngọc Giang có câu đối viếng: Sinh tại khoa danh sinh bất thiểm./Tử ư quốc sự tử do vinh (dịch nghĩa: sống vì khoa danh, sống không nhục/chết vì việc nước, chết  ấy vinh).


Nói về tu chí học tập thành danh ở đời 9 không thể không kể đến cụ Đặng Văn Kham, đỗ Cử nhân, được Vua ban tước Nam, thân phụ của 1 Phó bảng, 3 cử nhân, 4 Tú tài. Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), cụ Kham 18 tuổi đỗ Tú tài; thi 2 khóa tiếp đều đỗ Tú tài; năm thứ 12 (Tân Mão 1831) đỗ Cử nhân. Cụ Kham làm quan của triều đình lập nhiều công lớn được Vua thăng chức Án sát với những lời khen tặng: “Đặng Văn Kham vốn là người văn học xuất thân  lại quen cả việc võ, năm trước tích cực bắt giặc, ta rất khen Đặng Văn Kham, cho đổi tên là Đặng Kham. Nhân về huyện cung chức, thưởng cho 10 đồng tiền  Đại long văn” (Trích Gia Phả họ Đặng Cự Đình).

Con giai thứ 3 cụ Đặng Kham, cháu ruột Tiến sỹ Đặng Văn Khải là Đặng Quỹ ở đời thứ 10, đỗ Cử nhân năm Kiến Phúc thứ nhất (1884). Năm Thành Thái nguyên niên (1889) khoa Kỷ Sửu, đỗ Phó Bảng, làm đến Đốc học Bắc Kỳ (theo giấy chứng tử có công chứng năm 1918). Cụ Đặng Quỹ không những hay chữ mà còn giỏi thiên văn, địa lý, tiên đoán nhiều điều khác lạ. Nhà thờ cụ Quỹ, 5 gian rộng rãi (xây năm 1945) còn nhiều di vật quý như bức tranh vẽ chân dung cụ mặc triều phục, bảng sơn son thếp vàng Ân tứ vinh quy Vua ban khi đỗ đại khoa, câu đối, hoành phi chữ Hán và nhiều đồ thờ tự cổ kính. Ở làng Cự Đình còn ngôi nhà thờ tổ Đặng tộc trong đó có tấm bia đá quý ghi về công đức dòng họ với tổ tiên và nhà thờ cụ tổ nhánh có 2 vị tướng là Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Thiếu tướng Đặng Vũ Liêm.


Thành công nhờ phát huy truyền thống văn hoá dòng họ.


    Sau đời thứ 10, hậu duệ dòng họ Đặng thôn Cự Đình phát về ngạch quân sự, ngoại giao, giáo dục, y học, kinh tế, báo chí. Về học vấn, nhiều người được phong học vị Giáo sư như, GS Đặng Lợi Hàm (phong năm 1926), GS (Sử học) Đặng Nghiêm Vạn- Phong năm 1991, GSTS NGND (Y học) Đặng Hanh Đệ, GSTS (Dược học) Đặng Hanh Khôi, GSTS NGƯT (Dược học) Đặng Hanh Phức, GS Đặng Quý Khoa (phong năm 1989), TS (Luật) Đặng Trinh Kỳ, TS (Hoá học) Đặng Tuấn Phát, GSTS Đặng Vũ Hoạt, TS Đặng Nghiêm Chính, Thứ trưởng Bộ Xây dựng. Về ngoại giao có: Đặng Nghiêm Bái là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Vương quốc Anh (1982-1985), Canada (1986-1991); Đặng Nghiêm Hoành  là  Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc (1989-1997) . Con gái út của nhà ngoại giao Đặng Nghiêm Hoành là nhà báo, Thạc sỹ Đặng Thị Diễm Quỳnh (đời thứ 13), Phó kênh VTV6 Đài Truyền hình Việt Nam. Về quân sự, họ Đặng thôn Cự Đình được Wikipedia ghi nhận: Trong lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ 3 gia đình có 2 anh em mang quân hàm cấp tướng (gia đình ông và gia đình Đại tướng Đoàn Khuê, gia đình Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên có em trai là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh).
Thành công nhờ phát huy truyền thống văn hoá dòng họ.


    Thế hệ đời thứ 13,14 họ Đặng Cự Đình trong độ tuổi 30 đến 40 nhưng số người có bằng TS,  Thạc sỹ trong và ngoài nước khá nhiều như: TS Đặng Vũ Sơn, Thạc sĩ: Đặng Lợi Hoan, Đặng Hanh Tiệp, Đặng Hanh Sơn, Đặng Hồng Phương. Theo thế thứ trong gia phả thì đây là những Tiến sỹ, Thạc sỹ thuộc hậu duệ của các vị đỗ đại khoa, trung khoa, tiểu khoa (Tiến sỹ, Cử nhân, Tú tài) thời Nho học.Sự  thành công này có nguyên nhân từ truyền thống hiếu học, từ dòng chảy văn hóa dòng họ ở việc cháu con biết trân trọng những giá trị của tiền nhân để phát huy, áp dụng vào những hoàn cảnh mới./.

Gia Phả họ Đặng thôn Cự Đình-Chi cụ Kham
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc họ Đặng thôn Cự Đình-Chi cụ Kham.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc họ Đặng thôn Cự Đình-Chi cụ Kham
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.