GIA

PHẢ

TỘC


NGUYỄN
(CỦ-CHI)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ

CUỘC KHỞI NGHĨA MƯỜI TÁM THÔN VƯỜN TRẦU


                                                ***


Vào khoảng năm 1852 (đời vua Tự Đức) có hai anh em gốc từ miền Trung (tỉnh Bình Định) vào lập nghiệp vùng Bà Điểm-Hóc Môn.


Người anh thứ ba tên NGUYỄN VĂN TỎ, người em thứ tư tên NGUYỄN VĂN RẠNG, đã chọn khu vực Mười tám thôn Vườn trầu (Bà Điểm) để định cư, vì nơi đây rất trù phú.


Ông Nguyễn Văn Tỏ sinh được chín người con:-


-Thứ hai đến thứ năm   không biết tên.


-Thứ sáu:- Nguyễn Văn Quá (thầy dạy võ Sáu Quá), sinh năm 1831.


-Thứ bảy:- Nguyễn Văn Xe, sinh năm 1834.


-Thứ tám :- Nguyễn Văn Nghề, sinh năm 1837.


-Thứ chín:- Nguyễn Văn Ao, sinh năm 1840.


-Thứ mười:- Bà ….


 


*Hiện nay vẫn còn con cháu của hai ông nầy cư trú vùng Mỹ Hạnh, Ngã ba Giồng, Bà Điểm ...


***


Địa danh Hóc Môn, cho tới nay vẫn còn nhiều ý kiến giải nghĩa khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, người ta nói:"Hóc là chỗ xa xôi vắng vẻ (như ‘hóc bà tó’) có nhiều cây môn nước mọc". Nhà văn Lê Trung Hoa trong tiểu luận phó tiến sĩ văn chương có cách giải thích khác: "Hóc là cổ ngữ, có nghĩa là dòng nước nhỏ. Hóc đồng nghĩa với ‘hói’ để chỉ nơi đấy sâu lõm xuống thành bãi dài có nước đọng".

Theo một vị cao niên là cụ Lương Văn Nên (1857-1937) ở Hóc Môn kể lại rằng:"Cách nay trên 100 năm, Hóc Môn là một khu rừng đất cao, có nhiều cọp và thú dữ. Ban đêm chúng thường ra con rạch ở gần chợ Hóc Môn ngày nay uống nước". Lời kể ấy củng cố giả thuyết: "Hóc Môn là dòng nước nhỏ, có mọc nhiều cây môn nước". Tưởng cũng cần nói thêm về cây môn nước. Môn là loai cây thân cao như cây bạc hà, lá lớn trên ngọn, mọc theo chỗ trũng hoặc bờ sông, bờ ruộng có nước. Có hai loại môn: Môn ngọt ở chính giữa lá có chấm đỏ, có thể xào thịt ăn, hoặc làm dưa giống như dưa cải hay dưa mái dầm. Còn môn ngứa chỉ dùng lá gói đường, đậu mà thôi. Hóc Môn nằm phía Bắc Sài Gòn.

Từ Phú Nhuận có đường cái quan đi lên Bà Điểm, Hóc Môn, Trảng Bàng, cho tới Tây Ninh và biên giới Cam-pu-chia. Con đường này do Lê Văn Duyệt trong lúc làm Tổng Trấn Gia Định thành, chỉ huy dân phu đắp. Về sau Pháp mở rộng lên Gò Dầu gọi là quốc lộ số 1. Khi người từ miền ngoài tới, Hóc Môn còn là rừng rậm. Họ phải chặt cây làm chỗ trồng trọt, rồi làm ruộng, rẫy. Dần dần nơi đây có thôn ấp. Sản phẩm được trồng nhiều nhất vùng Hóc Môn Bà Điểm là cau, trầu để ăn kèm với thuốc trồng rất nhiều ở Gò Vấp. Thuốc ở Gò Vấp nổi danh khắp Nam Kỳ một thời gọi là thuốc Gò. Trầu , cau Hóc Môn Bà Điểm cũng nổi danh khắp miền Đông.

Thuở đó, trầu, cau, thuốc lá rất cần thiết hằng ngày, vừa để ăn, vừa dùng trong việc xã giao. "Miếng trầu là đầu câu chuyện", điều đó chứng tỏ trầu,cau, thuốc là món hàng rất có giá trị. Trầu là loại dây leo, phải cắm nọc cho nó bò lên. Hồi cuối thế kỷ 19, ở đây có một cái chợ chuyên môn bán nọc để trồng trầu, do ghe xuồng từ các nơi chở đến. Chợ đó là xã Tân Thới Nhì, có chợ Bến Nọc. Trầu và cau phải trồng lên liếp , nhưng không xẻ mương như ở miền giữa sông Tiền và sông Hậu, vì ở đây đất cao, chỉ có thể đào giếng lấy nước tưới mà thôi. Thị trường tiêu thụ trầu cau là chợ Bến Thành, chợ Bà Chiểu.

Mấy thập niên cuối của thế kỷ 19, dân chúng Bà Điểm, Hóc Môn thường gánh trầu xuống Gia Định bán. Họ đi thành đoàn hai, ba chục người để khỏi bị cọp vồ. Những năm sau đó, có xe ngựa chở trầu, cau và đồ hàng bông xuống bán ở Sài Gòn. Những ai từng cư ngụ trên đường Lê Văn Duyệt hồi những năm đó chắc sáng sớm sẽ bị đánh thức bởi tiếng vó ngựa lọc cọc trên mặt đường, hoặc tiếng xe bò cót két của người Hóc Môn, Bà Điểm chở trầu cau và đồ hàng bông xuống chợ. Vùng này , theo sách cổ, có đến 18 thôn chuyên canh trầu cau, nên gọi là "Thập bát phù viên", tức 18 thôn vườn trầu.

Theo bản án của Toà Án Bình Hòa- Gia Định xử vụ Quản Hớn khởi nghĩa, giết vợ chồng Đốc Phủ Ca, có kể tên 18 thôn liên hệ phải bồi thường số tài sản thiệt hại do cuộc khởi nghĩa này gây ra. Các thôn đó là:

1. Bình Hưng

2. Vĩnh Lộc

3. Tân Thới Thượng

4. Tân Đông Thượng

5. Trung Chánh (Quán Tre)

6. Tân Thông Tân

7. Tân Thông Tây

8. Tân Thới Tam

9. Tân Thới Nhì

10. Tân Thới Tứ

11. Tân Đông

12. Tân Thành

13. Tân Đông Trung

14. Xuân Hoá

15. Bình Hưng Đông

16. Bình Nhạn

17. Mỹ Hạnh

Hóc Môn là nơi hội tụ của những cuộc đời tao loạn miền Ngoài, tìm đến cuộc đất mới ấm no. Họ lập thành làng xóm trong cùng chung một hoàn cảnh, tạo ra một sắc thái riêng biệt của con người Hóc Môn: Giàu nghĩa khí (Nguyễn An Khuơng, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Ninh), giàu lòng yêu nước như Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá. Trong quá trình hình thành Hóc Môn, Bà Điểm, ban đầu họ lập các thôn xóm như Cây Bài, Bàu Sim…rồi dần xuống Hóc Môn, Bà Điểm, trở lên Củ Chi…
Dưới thời Gia Long (1802-1820), Hóc Môn là lỵ sở của huyện Bình Dương. Phạm vi huyện này lan rộng xuống tới Sài Gòn, và cả huyện Cần Giờ ngày nay. Hồi đàng cưụ, Trần Tử Ca (1823-1885) làm xã trưởng Hạnh Thông tới Gò Vấp. Sau Ca được thăng làm phó tổng Dương Hoà Thượng. Ban đầu Trần Tử Ca là một phú hộ, nhờ có chút ít học vấn nên được cử làm xã trưởng Hạnh Thông, chớ không phải là người xuất thân khoa bảng. Hồi đó Trần Tử Ca chưa theo đạo Thiên Chúa.

Năm 1860, đồn Chí Hoà bị hạ. Pháp chiếm luôn các vùng lân cận như Hóc Môn, Trảng Bàng, Tây Ninh. Lúc đó huyện Bình Dương còn dưới quyền tri phủ Hồ Huân Nghiệp, đang chỉ huy nghĩa quân kháng chiến. Đến năm 1865, Hồ Huân Nghiệp bị bắt và đem hành hình tại Phú Thọ rồi tri huyện Lưu Đình Lễ ở Hóc Môn cũng bỏ chạy. Pháp cử tên Lucien de Grammond lên trấn nhậm Hóc Môn. Tên nầy có râu quai nón, rất dài, mỗi khi giận, hắn nhai râu “trạo trạo”, dân chúng gọi là “ông nhai râu”. Trần Tử Ca dẫn vài tên nghĩa quân ra hàng để chuộc tội. Pháp cần người bản xứ ra cộng tác , nên thâu dụng Ca, cho hắn cai trị Hóc Môn, báo cáo tình hình và giữ an ninh. Thấy Ca khôn ngoan lanh lợi, thạo đường đi nước bước, Pháp cho Trần Tử ca dẫn đường để chúng đi kinh lý các tỉnh miền Tây. Tháng tám năm 1867, Ca cùng Giám Đốc Nội Vụ Paulin Vial xuống tàu ở Gò Công, bắt đầu xuống Bến Tre. Tình hình ở đây cũng mới tạm yên. Rồi họ xuống Trà Vinh, quân Pháp còn giao tranh với nghĩa quân tại Cầu Nang. Tên chỉ huy ở đây đã báo cáo:”Có làng tất cả dân chúng đều theo nghĩa quân.” Sau đó phái đoàn Pháp xuống Sóc Trăng, lên Rạch Giá, Long Xuyên. Chuyến đi thị sát vùng mới chiếm cho Pháp có ý niệm vững chắc về tình hình mấy tỉnh miền Tây cũng như địa thế của nó. Khi về, để củng cố lòng tin cậy của Pháp, gia đình Ca xin rửa tội theo đạo Công Giáo. Thấy địa vị khá vững, Ca bắt đầu công việc làm ăn của mình. Trong lúc tình hình vùng mới bình định chưa hoàn toàn yên ổn. Ca tìm những gia đình giàu có bắt bớ để tra khảo vì nghĩ họ giúp đỡ tiền bạc cho nghĩa quân. Bắt họ, có lợi trước mắt là khi đánh đập, gia đình sẽ đem tiền đến chuộc. Mặt khác Ca lo củng cố an ninh, kiểm soát dân cư cựu trào, phân loại theo thành tích mà hắn biết rõ trước đây. Thấy Ca làm được việc, Pháp cho Ca giữ chức Phó tổng lúc trước. Hồi năm 1983, có một lần ăn cơm trong một gia đình ở Chợ Lớn, tôi được nghe một vị bô lão, năm đó 81 tuổi, nhắc chuyện xưa về Phủ Ca:"Phủ Ca là người khôn ngoan, có lối làm việc theo kiểu đàng cựu. Mỗi lần bắt nạn nhân để khảo của, hắn vừa uống trà vừa hỏi cung, để cho dân chúng bu xung quanh xem. Mỗi khi nạn nhân bị đánh đập tàn nhẫn, rên la, thân nhân đứng bên ngoài cũng đau đớn, xin đem tiền đến nạp để cứu người thân. Nhiều người quá nghèo, nhưng vì thương chồng, con, phải bán nhà cửa, trâu, heo đến chuộc mạng, rồi sau đó bỏ làng trốn đi. Với phương pháp này, Ca làm giàu nhanh chóng, cất nhà gạch ở chợ Hóc Môn đầu tiên."

Một nho sĩ xu nịnh lúc bấy giờ đã mô tả hình dung Phủ Ca như sau:

"Ca thường bịt khăn nhiễu điều tứ cú, mặc áo lót song khai. Trấn nhậm tại xứ Hóc Môn, tục danh Mười Tám Thôn Vườn Trầu. Đang thuở ấy, bốn phía xứ Hóc Môn, nhân dân phong tục nhiều người ngang ngạnh, phần thì liền với Trảng Bàng, đất gò rộng minh mông vô hạn, quân giặc giã, trộm cướp hay quần tụ ra vào."

Dựa thế lực của chồng, vợ Ca cũng tác quái nhiều việc. Bà độc quyền mua trầu cau rồi dùng xe bò chở xuống Gia Định bán. Bà còn sắp xếp việc mua bán trong chợ Cầu. Trước đó ở đây có chợ Bến Nọc. Năm 1871, Ca được thăng tri huyện, thế lực càng lớn, dân chúng nơm nớp lo sợ, coi ông như cọp. Đến năm 1879, Ca được thăng đốc phủ sứ, mở tiệc ăn mừng bắt quan làng, dân chúng đóng góp. Năm đó, Ca cất dinh quận, bắt dân phu phục dịch cả năm trời như tội nhân lao động khổ sai. Bà vợ, để mở mang công việc làm ăn, cũng cho cất mới ở tại chỗ Chợ Cầu bây giờ. Chỗ đó về sau, dân địa phương gọi là "Chợ Quan Lớn Ca". Trước bữa khai thị hai hôm, Ca cho dán bố cáo:

"Mốt tới, coi chợ mới  tốt"

Sáng sớm hôm sau, bên cạnh thông cáo đó, có một câu đáp của một sĩ phu, chơi xỏ Ca:

"Mai lên, thấy con Mên  lai " (Miên lai)

Hồi trước ở trong Nam, người Việt sống chung đụng với người Miên nhưng kỳ thị họ, coi họ kém văn minh. Khi nói đến "Cao Mên, Con Mên…" là có ý nghĩa khinh khi họ.

CUỘC KHỞI NGHĨA  ĐÊM 24 TẾT

Vợ chồng Ca là người vừa tham vừa tàn ác. Sẵn quyền lực, được Pháp tin cậy, Ca không từ chối bất cứ biện pháp làm tiền dã man nào. Giữa thập niên 1880, dân chúng Hóc Môn trải qua những giấc mơ hãi hùng. Lúc nào họ cũng bị ám ảnh bởi :”nửa đêm thúc thuế trống dồn”. Bài “Vè Quản Hớn” nói lên tình cảnh ấy:

“Đêm năm canh giấc ngủ chẳng an
Ngày sáu khắc, lo xâu cùng thuế (1)
Qua năm Dậu (1885) gẫm âu quá tệ,
Khổ người dân như khúc gỗ tròn …”

(1) xâu : tức là sưu, hình thức đóng thuế bằng cách ra sức làm những công việc nặng nhọc như đắp đường, làm cầu, cất dinh…không được trả công.

Qua bốn câu đó, ta thấy tình hình bất mãn lên đến cực điểm vào cuối năm 1884. Hổ phụ sinh hổ tử. Hai người con của Phủ Ca cũng là những tên cường hào ác bá. Một tên gọi là Phủ Luông vừa gian ác, vừa hiếu sắc. Một tay hắn phá nát không biết bao nhiêu gái trinh tiết.

“Thêm công tử Phủ Luông mỹ hiệu,
Bởi bội ước hồn phi yểu yểu…”

Trong “Vè Quản Hớn”, dân gian dị nghị hai người con Phủ Ca như sau:

“Hai chàng con đốc phủ Ca,
“Xóm làng bắt hết, khảo tra sự tình”
“Ai ai đều cũng thất kinh,
“Trẻ già lo sợ như hình cò ma.”
"Ngỡ là con trả thù cha,
"Nào hay bán máu, đổi ra bạc tiền.
"Làm oai: kẻ trói, người xiềng,
"Dẫn về trường bố, cho liền cửa quan"
"Ai mà muốn chối tai nàn,
"Bạc cây đem nộp, mới an thân mình.
"Kẻ làm thì dạ ưng tình,
"người không cũng bắt, hành hình dữ thay.
"Kẻ thì kết án lưu đày.
"Người thì chém giết xứ này Hóc Môn"

Bài "Vè Quản Hớn" đã tố cáo hành vi tàn ác của hai người con Trần Tử Ca. Tuy không giữ chức vụ gì, nhưng dựa lịnh cha, họ cũng bắt người tra tấn để khảo của , bất luận oan hay ưng. Ngoài ra, theo lịnh Pháp hồi đó, dân chúng đóng thuế dầu phộng để đốt đèn. Theo lịnh Ca, dân nạp đậu phộng nhiều, Ca cho lính ép lấy dầu, giữ lại một phần lớn, còn ít thì nạp vào kho. Tiếng dữ được loan truyền trong dân chúng:

"Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng,
"Ép lấy dầu nộp thiểu , thâu đa…"

Bao nhiêu tiền của, do công lao, sức lực của dân nghèo, gia đình Ca đều tóm thâu gần hết. Gặp cảnh khổ của người dân, Ca cũng không động lòng. Trong lúc mọi người oán hận Ca thì Ca thản nhiên tổ chức lễ mừng lục tuần rình rang, bắt lính tráng, dân phu phục dịch suốt tuần lễ. Để giúp vui, Ca cho tổ chức đua ngựa, rước gánh hát bội về diễn , nhưng dân chúng phải góp tiền để trả. Các hương chức hội tề chia nhau gánh vác, đóng góp vàng lụa "mừng quan"

"…Khai lục tuần địch thể giá vua,
"Theo tân trào phá miếu đốt chùa"

gây thêm khích động .


Tội ác của bè lũ Việt gian bán nước đã gây phẫn uất trong nhân dân sôi sục, không còn chịu đựng được. Vì vậy, nhân dân đã bí mật liên kết thành tổ chức để thẳng tay trừng trị tên Phủ Ca, dưới sự lãnh đạo của Chánh Quản Cơ Phan Văn  Hớn (tục gọi Quản Hớn) hiệp cùng Nguyễn Văn Bường (tự Năm Sóc) và Nguyễn Văn Quá. Lực lượng khởi nghĩa quy tụ quanh Sài Gòn vạch kế hoạch, chiến lược, phát động tiến quân vào đêm mùng 8  tháng 2 năm 1885. Cánh quân Nguyễn Văn Bường lấy cứ điểm Cầu Kiệu chuẩn bị nhân sự và vũ khí đột nhập chợ Tân Định và Phú Nhuận đánh chiếm các cơ sở của giặc. Kế hoạch khởi nghĩa của ta lần này cương quyết đánh chiếm Hóc Môn, bắt giết cho kỳ được tên đại Việt gian Trần Tử Ca, rồi thừa thắng kéo xuống đánh Sài Gòn từ mặt Gia Định, Bình Hòa, trong lúc đó, thì các cánh nghĩa quân từ  phía Tây (Bình Chánh) và phía Nam (Cần Giuộc) đồng loạt ập vào Sài Gòn, diệt địch ngay từ mờ sáng Tết năm Dậu.


***


Đêm 8 rạng  9 tháng 2 năm 1885 (đêm 24 tháng chạp Ất Dậu), nghĩa quân mồi đuốc dẫn đường , tay cầm giáo, mác, côn… kéo vào hướng dinh quận Hóc-Môn bằng  3 cánh quân từ hướng Bà Điểm, Củ Chi, Bến Phân (Chợ Cầu) . Trong đó cánh quân Bà Điểm dưới sự lãnh đạo của phó chỉ huy Nguyễn Văn Quá và tổng lãnh binh Phan văn Hớn  xuất phát từ Vĩnh Lộc-Gò Mây-Mỹ Hạnh, cùng với cánh quân Củ Chi do “Ông Kề” lãnh đạo và cánh quân Bến Phân (Chợ Cầu) là hai lực lượng yểm trợ rất hùng hậu vì có nhiều nông dân tham gia. Ngoài ra còn có “Ban nội ứng” do Ông Cai Võ chỉ huy, có nhiệm vụ đốt dinh quận.


Cai tổng Thành (là người bà Điểm lại là tay thân tín của Trần Tử Ca) , hấp tấp chạy báo cho quận hay, là có dân nổi loạn đang đi đến dinh quận. Trong lúc Quận Ca còn đang ở tại văn phòng, hay hung tin ông ta hốt hoảng chưa kịp đối phó thì quân khởi nghĩa đã đến gần sát dinh quận. Lính canh gác dinh quận kháng cự lại và họ đều bị giết ngay tại chỗ. Cuộc giao tranh ác liệt xãy ra giữa dân và quân lính của quận. Tên CA  chạy thoát ra ngoài khỏi dinh, nhưng bà Lớn vì mắt mũi sờ sệt còn bị kẹt lại trên gác dinh quận, nên CA  quay trở vào để cứu bà Lớn. Quân khởi nghĩa trông thấy, hô to : “Thằng Ca đây nè !” .Rồi kẻ giáo mác đổ xô lại, vợ chồng Đốc phủ Ca phải đền nợ máu.Nghĩa quân đem đầu của Ca nêu trên cây cột đèn.(hồi ấy làm trụ , ban đêm  có treo đèn đốt bằng dầu mù -  u).



Trước đó chừng mười hôm, Đề Bường (Nguyễn Văn Bường) cũng chuẩn bị khởi nghĩa ở Phú Nhuận. Ý định của Đề Bường là tấn công chợ Xã Tài (Phú Nhuận) rồi kéo sang đốt chợ Đất Hộ (Đa Kao), liên lạc với nghĩa quân Hóc Môn để họ tiếp trợ. Đề Bường cho người liên lạc với một nhóm tù bị giam tại khám lớn, hẹn đến đêm đó nổi lửa đốt khám, nghĩa quân sẽ đến giải cứu. Tuy nhiên khám vẫn nổi lửa đốt lên đúng hẹn, làm cho Pháp bỏ chạy , nhưng đợi mãi không có quân đến tiếp cứu vì Đề Bường đã bị bắt trước khi ra tay. Thế là cuộc khởi nghĩa của Đề Bường chỉ gây được tiếng vang mà thôi.


*


*        *


Qua vụ giết Phủ Ca, dư luận Hóc Môn phản ánh qua bài "Vè Quản Hớn":

"Quản Hớn dầu chết cũng rạng danh,
"Vì trừ được tham quan ô lại
"Quan đốc phủ thác đà cũng phải
"Khai lục tuần địch thể giá vu
"Theo tân trào phá miếu phá chùa,
"Thuở cựu trào làm cai phó tổng
"Ở một ngày một lộng
"Lầu ba từng lại có võ môn
"Nhựt nhựt thường kiểng đổ trống rung
"Xe song mã sướng đà quá sướng
"Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
"Ép dầu nộp thiểu, thâu đa..."

* Từ đó, ở Hóc Môn có lưu truyền hai câu ca dao:

"Mừng xuân có pháo, có nêu,
Có đầu quan phủ đem  bêu  cột đèn"


 


*Sau cái chết thê thảm, nhục nhã của tên Đốc phủ Trần Tử Ca, chính quyền Pháp đem quân lên quận Hóc Môn  lùng sục bắt những người có tham gia vào cuộc khởi nghĩa mà chúng gọi là “bọn nổi loạn”. Người bị tình nghi cũng bị thực dân Pháp tra tấn dã man. Phần lớn anh em con cháu nội ngoại của 2 ông Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá  đều bị xét xử, số còn lại phải tìm cách thoát thân, chạy trốn nơi khác , thay tên đổi họ để được yên thân.


 


*Dịp nầy, hai ông tám Nghề và chín Ao chạy trốn lên làng Ba Sa, tổng Long Tuy Thượng, huyện Bình Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An, thành Gia Định để ẩn náu và khai cơ lập nghiệp tại đây.


Ông Nghề cải thành họ  LÊ, ông Ao cải thành họ TRẦN, trở thành Thủy Tổ của hai dòng họ Lê và Trần  ở khu vực Ba Sa, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


-Gia


*Nhắc lại, trước tình cảnh khốn khổ của đồng bào và người thân bị giặc Pháp bắt giam cầm và sát hại, hai ông rất đau lòng xót dạ. Mặc dầu đã thoát được cuộc ruồng bố của giặc, nhưng thời gian mấy tháng sau, hai ông đã phải cho người bắt liên lạc để hứa hẹn đi về cùng ngày ra mặt với chính quyền Pháp, để cứu vớt đồng bào, người thân khỏi tù tội.


Đến ngày hẹn, hai ông có mặt tại công sở Tân Thới Nhất-Bà Điểm, bảo với quan chức sở tại hãy báo về quận đặng cho đem kiệu võng đến rước. Tại trụ sở nầy, hai ông được thân nhân gia quyến  “tế sống”. Sau đó, hai ông được nhân dân đặt lên kiệu để đưa qua quận Bình Long (Hóc Môn). Đến cầu Quan, quân lính Pháp đã giải tán dân chúng, rồi trực tiếp áp giải hai ông về dinh quận.


Thực dân Pháp ra sức dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ hai ông ra làm tay sai cho chúng, nhưng Nguyễn Văn Quá và Phan Văn Hớn vẫn giữ vững khí tiết. Thấy không thể thuyết phục được, nên giặc quyết định đưa hai ông ra Tòa án binh xét xử cùng với số người tham gia trong cuộc khởi nghĩa bị bắt .Phiên tòa xét xử từ ngày 31-8-1885  đến 13-9-1885 (kéo dài 14 ngày). Theo tài liệu lưu trử tại Sở Mật Thám Sài Gòn, danh sách lúc đó ghi chép lại có : “ 14 người tử hình, 16 người bị kết án 15 năm khổ sai, số còn lại đều bị đày ra Côn Đảo”.


(14 án tử hình gồm có:- Phan Văn Hớn, Nguyễn văn Quá, Nguyễn Văn Xiêm, Phan Văn Võ, Lâm văn Thi, Phan Văn Thuyên (tự Trang, thầy thuốc), Nguyễn văn Do, Trần văn Lên, Nguyễn Văn Hoai, Nguyễn Văn Lanh, Huỳnh Văn (Châu) Tính (anh rễ thứ tư của ông Quá), Nguyễn văn Xe (em thứ bảy của ông Quá), Huỳnh Văn Huân, Lê Văn Dạt. Riêng ông Nguyễn Văn Bường bị án chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo)


Cũng theo bản án của Tòa án Bình Hòa, người bị án phải bồi thường tài sản vợ chồng Đốc phù Ca cho các con của hắn. Mấy người con nầy đã đứng ra kêu nài, có luật sư bênh vực, xin bồi thường đến 18 ngàn đồng (bấy giờ một lượng vàng trị giá 40 đồng). Lại còn bồi thường về nhà cửa, phố chợ bị cháy… (Bến Nghé xưa—Sơn Nam-tr.181).


Cuối cùng chúng đã giết Nguyễn Văn Quá và Phan Văn Hớn bằng cách xử chém tại chợ Hóc Môn ngày 30-3-1886 (nhằm ngày 25-2-Bính Tuất) . Để trấn áp phong trào khởi nghĩa, sau khi giết hai vị anh hùng thì chúng đem thủ cấp đi bêu ở hai nơi ngược với quê quán của hai ông :-


-đầu của Nguyễn Văn Quá thi bêu ở Bến Phân-Chợ Cầu


-đầu của Phan Văn Hớn thì bêu ở làng Mỹ Hạnh (chỗ ở của ông Quá)


Gia đình hai ông phải nhiều phen lo lót cho bọn chức trách địa phương và phải nhiều phen chạy lên chạy xuống Mỹ Hạnh-Chợ Cầu để đem thủ cấp của hai vị anh hùng ráp cho toàn vẹn với thi thể để an táng. Và đây cũng là đầu mối cho một tập quán rất đẹp ngày nay là, hàng năm, đến ngày giỗ hai ông thì bà con thân nhân hai bên lại phối hợp cùng nhau tổ chức đám giỗ chung. Bên Mỹ Hạnh hai bên tổ chức giỗ ông Quá vào ngày 24 -2 ÂL thì ngày hôm sau, tất cả lại kéo về Bà Điểm để tham dự giỗ ông Hớn.


(Miếu thờ Ông Hớn ở Bà Điểm, còn Miếu Thờ của Ông Quá ở Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, Tỉnh Long An, ngay sau UBND Xã MHB).


 


(Tài liệu tham khảo:- Đất nước và con người Hóc Môn-Lê Quốc Sử-1992


-Hồ sơ Di tích lịch sử Mộ & Miếu thờ Ông Nguyễn văn Quá của Sở VHTT Long An-1999 .


-Bến Nghé  xưa của nhà văn Sơn Nam. )


 



 


Gia Phả LÊ NGUYỄN (CỦ-CHI)
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc LÊ NGUYỄN (CỦ-CHI).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc LÊ NGUYỄN (CỦ-CHI)
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.