Sinh ra tại thị Trấn Vạn Hoa, Cát Bà, lúc nhỏ ở Hòn Gai, sau về Hà nội. Là học sinh trường Bưởi từ 1943-1947 thì đi kháng chiến. Tham gia mặt trận Việt Minh từ năm 15 tuổi, học trường trung học kháng chiến, được kết nạp Đảng năm 1949. Năm 1951 dạy học và tham gia công tác Đảng ở trường Sư Phạm trung ương ở chợ Ngọc, Tuyên Quang. Sau là liên chi ủy viên khu học xá. Năm 1953, về làm hiệu trưởng trường Sư phạm miền núi trung ương, làm nền tảng phát triển định hướng công tác Dân tộc, Tôn giáo sau này. Năm 1963 về giảng dạy tại Khoa Sử, đại học Tổng hợp sau khi hoàn thành khóa thực tập về bộ môn Dân tộc học tại trường Đại học tổng hợp Quốc gia Lomonoxop từ năm 1958. Từ năm 1967, ông chuyển sang công tác tại Viện dân tộc học, là Phó Viện trưởng chuyên trách về các dân tộc Tây Bắc-Trường Sơn-Tây Nguyên từ năm 1980. Từ năm 1991, được giao thành lập Viện Nghiên cứu Tôn giáo với cương vị Viện trưởng, năm 1999 là Tổng biên tập tạp chí Tôn giáo. Về nghỉ hưu năm 2000. Với hơn 260 công trình khoa học về tình hình Dân tộc và Tôn giáo ở Việt Nam, ông được Đảng, nhà nước và giới khoa học trân trọng. Là Giáo sư Sử học từ năm 1991, ông là Ủy viên Hội đồng học hàm quốc gia, ngành Sử học. Chủ nhiệm nhiều chương trình và đề tài khoa học cấp nhà nước nhất là các chương trình về Tây nguyên và Tôn giáo... ông cũng được giới khoa học coi là một trong những người tiên phong của nghành Dân tộc học và là người sáng lập ngành Tôn giáo học Việt nam. Với gia đình ông là người con có hiếu, luôn lo lắng săn sóc gia đình, có cảm tình với hai họ nội ngoại, nhất là họ ngoại. Vợ là bà Nguyễn Kim Dung, sinh 5/10/1935, tốt nghiệp Đại học sư phạm ngoại ngữ khoa Trung văn, làm công tác giáo dục từ năm 1961 đến khi nghỉ hưu năm 1993. |