Sinh tại Vientian- Laò, mất mẹ khi mới 10 tháng
tuổi, về sống với bà ngoại tại thị xã Bắc Ninh cho đến 1-8-1937 về ở với cha và
mẹ kế tại Lào. Năm 1939 theo gia đình về thành phố Nam Định. Toàn quốc kháng chiến chống
Pháp, học Sư phạm Trung cấp Trung ương ở chợ Ngọc, Yên Bái. Cuối năm 1951 sang
công tác tại Khu Học Xá Nam Ninh, Trung Quốc. 24-7-1952 về Bắc Giang làm việc ở
Ty Giáo dục Bắc Giang đóng tại huyện Yên Thế, dạy trường cấp 2 Lạng Giang
(1953), trường cấp 2 Hiệp Hòa (1954). Năm 1957 đi học đại học sư phạm ban Toán,
1959 ra trường trước thời hạn để dạy trường Bổ Túc Văn Hóa Công Nông TW. Năm
1961, do loét hành tá tràng, xin chuyển về dạy các trường cấp 3 ở Hải Phòng, lần
lượt là Thái Phiên, Ngô Quyền, Kiến Thụy, Đồ Sơn, Phổ thông ban đêm, An Dương,
Ngô Quyền, Hải An, An Lão. Bất đắc chí do việc sử dụng trí thức, không cần người
tài mà chỉ cần người bảo sao nghe vậy, ngày 1-1-1981 nhân dịp nghỉ tết dương lịch,
viết đơn xin nghỉ hưu rồi bỏ hẳn ngành giáo dục, không lương, không tem phiếu
thực phẩm dù rằng khi đó đất nước đang vô cùng gian khổ trong cuộc sống thời
bao cấp. Đến tháng 2-1986, mới nhận sổ hưu. Được nhà nước tặng huân chương kháng
chiến hạng nhất.
Vợ là Bùi Thị
Kim Bình, con cụ Bùi Văn Cầu (kỵ: 17 tháng 6) và cụ Trần Thị An, mất ngày 10.1.1955
(17 tháng chạp Tân Mùi) người làng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Năm 1948 là bí thư phụ nữ xã, rồi chấp hành phụ nữ huyện Hữu Lũng (Bắc Giang).
Năm 1950 nhà nước thành lập ngành ngân hàng, được điều về chi nhánh ngân hàng
xuất nhập khẩu phân khu A. Năm 1956 chuyển sang dạy cấp 1. Năm 1957 chuyển về dạy
ở Hải Phòng, đến 1982 thì về hưu. Được chính phủ tặng huân chương kháng chiến hạng
hai. Sinh được 6 trai. |