MỤC LỤC:
Tiểu sử ngài Thủy Tổ
Quá tŕnh phát triển dòng tộc
Hội đồng gia tộc
Văn tế giỗ Tiên Hiền
Văn bia công đức ngài Thủy Tổ.
Muc thu 2
Muc thu 3
Muc thu 4
Liên hệ
THAY LỜI TỰA:
Năm 1981 . Ông Võ Trọng Hoàng (Tức Vũ trọng Hoàng thường gọi là ông bốn Hương) nguyên là cán bộ lão thành cách mạng,đời tứ 13 thuộc chi I Phái II và ông Võ Anh đời thứ 14 thuộc chi II phái II đã dựa trên gia phả của tổ tiên để lại đã cùng nhau đi tìm nguồn gốc vị Thuỷ tổ tiền hiền Võ Chỉ Hiếu.
Sau nhiều lần tìm hiểu, đối chiếu theo các gia phả của tộc Võ và văn bia vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu ở Mông Lãnh cũng như gia phả,văn bia ngài Võ Huý Trung ở Lương Văn cũng như các tài liệu khác ông Võ Trọng Hoàng đã viết bài “Nguồn gốc vị Thuỷ tổ tộc võ làng Mông Lãnh”.
Nay tôi mạo muội giới thiệu tài liệu này để cho nhiều người và thế hệ sau được rõ. Nếu vị nào có tài liệu có thể làm sáng tỏ hơn về xuất xứ của ngài Võ Chỉ Hiếu thì cùng nhau trao đổi với chúng tôi theo địa chỉ Email: manthcsqx@gmail.com
NGUỒN GỐC VỊ THUỶ TỔ TỘC VÕ LÀNG MÔNG LÃNH
Dựa vào gia phả ông bà để lại chúng tôi đã 2 lần (1981-1990) ra tận nơi xuất phát của vị Thuỷ tổ VÕ CHỈ HIẾU từ xã Lương Văn, tổng Phú Xuân, huyện Phú Vang vào Mông Lãnh để định cư lập nghiệp (nay là xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng) để sưu tầm nghiên cứu.
Đúng là xưa kia có xã Lương Văn , thuộc tổng Sư Lỗ, sau đổi thành tổng Phú Xuân, huyện Phú Vang, Phủ Triệu Phong, đaọ Thừa Tuyên Thuận Hoá, nay là xã Thuỷ Lương , huyện Phú Vang , tỉnh Thừa Thiên - Huế. Theo “Phủ biên tập lục” của Lê Quí Đôn và nhiều tài liệu lịch sử khác, thì ở huyện Phú vang cũng như ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói chung xưa kia và hịên nay đều không có một xã Lương Văn nào khác.
Xã Thuỷ Lương (Lương Văn) ở về phía đông đường quốc lộ 1A, cách sân bay Phú bài khoảng 5 km và cách Huế về phía nam khoảng 10km. Đây là một xã ở vùng đất trũng, thường bị ủng thuỷ ngập mặn. Dân số khoảng 5000 người , ruộng đất tương đối tốt , diện tích canh tác trên 400ha . Trong hai cuộc kháng chiến (1945-1975), Thuỷ Lương thuộc vùng địch tạm chiếm nên hầu như không bị chiến tranh tàn phá, sự hy sinh mất mát không đáng kể, nhà cửa, nhà thờ, đình chùa miếu mộ gần như còn nguyên vẹn.
Tộc Võ ở Lương Văn là một trong ba tộc lớn: Tộc Huỳnh, tộc Võ; Tộc Phạm. các tộc khác nhỏ, ít người, không có thế lực. Từ xưa tộc Trương là em nuôi của tộc Võ, được tộc Võ đỡ đầu.
Đình làng Lương Văn xây dựng năm Cảnh Hưng thứ nhất 1740 thời vua Lê Hiển Tông, cách đây khoảng 257 năm. Đình làng chỉ thờ 3 vị Thuỷ tổ của 3 tộc Võ, Huỳnh, Phạm. Vị Thuỷ tổ tộc Võ là Võ Huý Khởi (Cũng là VÕ HUÝ TRUNG) được thờ tại đình làng.
Nhà thờ tộc Võ ở Lương Văn làm thời Gia Dụ(1), từng thời gian có sửa chữa và đại trùng tu năm 1931, năm Bảo Đại thứ năm. Tức làm thời vua Lê Kinh Tông cách đây khoảng 381 năm. Nhà thờ lớn thờ vị Thuỷ tổ Võ Huý Trung, tự là Hiếu từ Đại Lang. Ngài được sắc phong “ DỰC BẢO TRUNG HƯNG LỊNH PHÒ GIA TẠNG ĐOAN TỨC TÂN THẦN”.
Vị Thuỷ tổ Võ Huý Trung sinh 11 ông con trai và 1 bà con gái , không có ông nào trùng tên với vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu của chúng ta ở làng Mông Lãnh và chỉ có 4 ông có sanh hạ, chia làm 4 phái: Phái nhất là Võ Khắc; Phái nhì là Võ Đình; Phái ba là Võ Phước; Phái tư là Võ Văn. Ngoài nhà thờ tộc , mỗi phái đều có nhà thờ riêng để thờ người đứng đầu phái mình. Hiện nay còn 3 phái có sinh hạ con cháu là phái nhất, nhì và tư còn phái ba vô tự nhưng vẫn còn nhà thờ.
Gia phả Võ ở Họ Lương Văn làm năn Gia Long thứ 15 (1817) cách đây 173 năm. Gia phả không ghi rõ vị Thuỷ tổ Võ Huý Trung vào đây từ năm nào, thời vua nào,nhưng lăng mộ của ngài mới được xã và Tộc xây dựng năm 1942, năm Bảo Đại thứ 16 cách đây 48 năm, thì văn bia lại ghi rõ vị Thuỷ tổ VÕ HUÝ TRUNG từ Thanh Hoá vào Lương Văn thời “LÊ TRIỀU THẬN ĐỨC” Tức thời Lê Kinh Tông năm 1600, cách đây 390 năm, ngài sinh hạ được 13-16 dời con cháu . Hàng năm cứ đến ngày Đông Chí (22/12 dương lịch) là ngày giỗ tổ, ngày kỷ niệm vị Thuỷ tổ Võ Huý Trung.
Đó là bước đầu nghiên cứu về tộc võ ở Lương Văn cần đối chiếu xem tộc Võ ở Lương văn và tộc Võ ở Mông Lãnh từ Thanh Hoá vào giai đoạn nào và có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Gia phả của chúng ta ghi : Vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu từ xã Lương Văn, tổng Phú Xuân (trước đó là tổng Sư Lỗ), huyện phú Vang vào sinh cơ lập nghiệp ở xã Mông Lãnh thời vua HỒNG ĐỨC (Lê Thánh Tông) năm Kỷ sửu, tức năm 1469 cách đây 521 năm(2). Ngài được sắc phong “ĐẶC TẤN TÙNG PHU TIỀN XÃ TRƯỞNG”. Còn gia phả tộc võ ở Lương Văn không ghi rõ vị Thuỷ tổ Võ Huý Trung vào đây từ năm nào, thời vua nào. Nhưng nếu gia phả ở Lương Văn làm năn Gia Long thứ 15, tức năm 1817 cách đấy 173 năm , thì gia phả ở Mông Lãnh cẩn tu năm MINH MẠNG thứ 11, tức năm 1831 cách đây 159 năm, cách nhau 14 năm. Do không khớp nhau về thời gian nên qua tham khảo gia phả và văn bia của các tộc Ngô, Lê... ở Mông Lãnh thì các vị Thuỷ tổ của các tộc này cũng từ bắc vào thời HỒNG ĐỨC, và nếu tính theo thế thứ sinh hạ thì tộc Võ ở Lương Văn cũng như tộc Võ, Ngô, Lê... ở Mông Lãnh đều có một niên đại ngang nhau tức từ 13-16 đời con cháu.
Song về thời gian xây dựng nhà thờ tộc Võ (thời GIA DỤ) và thời gian khắc trên văn bia của ngài Võ Huý Trung ( thời THẬN ĐƯC) ở Lương Văn lại cùng một niên đại vua Lê Kinh Tông , cách đây khoảng 381-390 năm. Như vậy có thể vì những lý do nào đó mà gia phả tộc võ ở Lương Văn ghi chép không được đầy đủ và thiếu chính xác như gia phả Tộc Võ ở Mông Lãnh và văn bia của ngài Võ Huý Trung bị ghi nhầm từ HỒNG ĐỨC thành THẬN ĐỨC chăng?
Từ đó về cơ bản có thể khẳng định : Vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu của chúng ta từ Thanh Hoá vào Lương Văn, tổng Phú Xuân, rồi từ đây ngài lại vào Mông Lãnh để sinh cơ lập nghiệp vào thời Hồng Đức, tức vua Lê Thánh Tông năm Kỷ Sửu 1469 cách đây 521 năm đúng như gia phả tộc võ chúng ta đã ghi chép.
Vì vậy tộc Võ ở Lương Văn và tộc Võ ở Mông Lãnh có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Nếu gia phả tộc Võ của chúng ta như vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu từ Lương Văn vào Mông Lãnh, thì đúng là ở huyện Phú Vang tổng Phú Xuân xưa kia có xã Lương Văn , và ở đây có một tộc Võ sinh hạ con cháu đông đảo, và cũng có từ 13-16 đời xấp xỉ ngang như tộc Võ của chúng ta ở Mông Lãnh. Chữ lót ở hai nơi cũng giống nhau, tức là Võ Văn, Võ Phước, Võ Đình, Võ Khắc có khác chăng là ở Lương văn Võ Khắc đông hơn còn ở Mông Lãnh thì Võ Văn đông hơn. Nếu gia phả ở Mông Lãnh ghi Thái nguyên Quận Võ Chỉ Hiếu thì ở Lương Văn cũng ghi Thái Nguyên Quận Võ Huý Trung.
Từ đó có thể khẳng định : Tộc Võ ở Lương Văn và tộc Võ ở Mông Lãnh là cùng một huyết thống, một dòng họ với nhau.
Thế thì vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu của chúng ta ở Mông Lãnh và vị Thuỷ tổ võ Huý Trung ở Lương Văn có quan hệ cha con hay anh em?
Gia phả tộc võ ở Mông Lãnh cũng như gia phả tộc Võ ở Lương Văn đều không có tên ngài Võ Chỉ Hiếu và Võ Huý Trung của nhau trong mỗi bộ gia phả ở mỗi nơi . Mộ táng của mỗi ngài cũng đều có ở mỗi nơi Mông Lãnh và Lương Văn, thế thứ sinh hạ cũng ngang nhau.
Cho nên từ đó có thể khẳng định: Quan hệ giữa vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu và ngài Võ Huý Trung ở Lương Văn là quan hệ anh em cùng một dòng máu sinh ra, không phải quan hệ cha con.
Vậy ai sinh ra ngài Võ Chỉ Hiếu và ngài Võ Huý Trung và ai là anh, ai là em? cả hai gia phả không thấy nói đến nên không có cơ sở để xác định.
Nhưng một điều có thể khẳng định là ngài Võ Chỉ Hiếu và ngài Võ Huý Trung là hai anh em đều cùng ở Thanh Hoá vào Lương Văn . Rồi từ Lương Văn ngài Võ Chỉ Hiếu mới vào Mông Lãnh để sinh cơ lập nghiệp. Còn ngài Võ Huý Trung thì ở lại Lương Văn. Để tiện cho việc xưng gọi nhau trong dòng họ và cũng phù hợp với đạo lý thế tình chúng tôi cùng nhất trí xem ngài Võ Huý Trung ở lại là anh, ngài Võ Chỉ Hiếu vào Mông Lãnh là em.
Tóm lại, những điều xác định trên đây là qua một số lần nghiên cứu của nhiều bản gia phả và văn bia của tộc võ ở Lương Văn và tộc võ ở Mông Lãnh cùng với sự tham khảo gia phả và văn bia của một số tộc họ khác, có tra cứu đối chiếu với nhiều tài liệu lịch sử của nước ta. Cuộc trao đổi mới đây vào tháng 8 năm 1988 phía tộc Võ ở Lương Văn có các ông:
1)Tộc trưởng: ông Võ Khắc Kề (67 tuổi)
2)Cựu tộc trưởng: ôngVõ Khắc Dược (82 tuổi)
3)Trưởng phái Khắc: Ông Võ Khắc Nhạc (Cán bộ quân đội nghỉ hưu)
4) Ông Võ Khắc Thanh. người có kiến thức Hán Học khá am hiểu nhiều việc và một số anh em khác.
Điều mong muốn của chúng tôi và bà con tộc Võ ở Lương Văn là từ trên những mối quan hệ này , tuy ở xa nhau , nhưng làm sao trong thời gian sắp đến cần có sự trao đổi thăm viếng lẫn nhau, nhất là những ngày giỗ tộc , ngày kỷ niệm của hai vị Thuỷ tổ của chúng ta ở mỗi nơi Mông Lãnh và Lương Văn.
Chúng tôi có mời các vị tộc Võ ở Lương Văn vào thăm chúng tôi khi nào có điều kiện và cũng đã báo cho nhau nhhững địa chỉ cụ thể.
Ngày...tháng ...năm 1990
Võ Trọng Hoàng
Ghi chú:
(1) Gia Dụ tức là Đoàn Quân Công Nguyễn Hoàng, thường gọi là chúa Tiên, về sau trung phong “Thái tổ Gia Dụ Hoàng Đế”. Theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim.
(2) Vua Lê Thánh Tông có 2 niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) Hồng Đức (1470-1497)
LỜI THUẬT
Để hiểu khái quát về nguồn gốc của vị Thuỷ tổ Tiền Hiền tộc Võ chúng ta cũng như sự sinh tồn và phát triển của dòng tộc. “Lời thuật” xin tóm lược vài nét chính sau:
Vị Thuỷ tổ tiền hiền tộc Võ chúng ta tên thật là Võ Chỉ Hiếu, quê quán tỉnh Thanh Hoá . Thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận, ngài phụng mệnh triều đình vào định cư tại xã Lương Văn thuộc tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong, đạo Thừa Tuyên, Thuận Hoá. Nay là xã Thuỷ Lương, huyện Hương Thuỷ , tỉnh Thừa Thiên Huế. Có lẻ nơi đây đất đai cằn cổi , nước nặm đồng chua nên một lần nữa ngài rời xã Lương Văn.
Năm Kỷ Sửu 1469 đầu niên hiệu Hông Đức , ngài cùng 4 người con là Võ văn Trí, Võ Quang Tán, Võ Văn Tín và Võ Văn Tu vào định cư và lập nghiệp lâu dài ở vùng đất Phù Sa ven sông Bà Rén. Tại đây, ngài cùng các vị thuộc tộc họ khác là Ngô; Phan; Lê; Trương; Đoàn cùng nhau khai khẩn và kiến lập nên xã Mông Lãnh thuộc tổng Mông Lãnh, huyện Diên Khánh , phủ Điện Bàn. Nay là xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.
Một thời gian sau. Vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu cùng với người con trưởng là ngài Võ Văn Trí lại tìm đến một nơi về sau gọi là ấp Bằng Lăng (thuộc xã Mông Lãnh) để định cư lập nghiệp lâu dài thêm vùng đất mới nữa. Ngài lại được sắc phong “TIỀN TỔNG CHÁNH”, ngài Võ văn Trí cũng được phong “ĐẶC TẤN TÙNG PHU TIỀN XÃ TRƯỞNG”.
Còn ba người con thứ hai của ngài là Võ Quang Tán (còn gọi là Ấm Tán) sinh cơ lập nghiệp vững chắc trên đất Mông Lãnh. Ngài Võ Quang Tán được sắc phong “TÙNG PHU NHIÊU QUÍ CÔNG”có bản ghi là “MÔNG ÂN TÙNG SỬ NHIÊU THÂN”.Việc khai khẩn lập ấp xong, ngài giao cho người con trưởng là ngài Võ Văn Trí ở lại ấp Bằng Lăng tiếp tục khẩn hoang nên về sau con cháu suy tôn ngài Võ Văn Trí là Tiền Hiền tại làng Lãnh Thượng.
Đến đời thứ 6, cách đây khoảng trên 330 năm, ông Võ Văn Chất , người con cả của ngài Võ Văn Hảo, cháu 4 đời của ngài Võ Quang Tán và là cháu 5 đời của ngài Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu cũng tìm đến một vùng đất mới nữa mà về sau gọi là ấp Phương Trì (cũng thuộc làng Mông Lãnh lúc bấy giờ) để làm ăn sinh sống và lập nghiệp tại đây. Đến đời thứ 9, cách đây khoảng 230 năm, tại ấp Bằng Lăng, ông Võ Văn Khoa là con ông Võ Đình Mười, cháu đời thứ 7 của ông Võ Văn Trí lại trở về Mông Lãnh, nơi vị Thuỷ tổ của chúng ta đặt chân đến lần đầu tiên để làm ăn sinh sống cùng tập thể con cháu ngài Võ Quang Tán mãi đến ngày nay.
Như vậy, tộc Võ chúng ta có 2 phái: Phái nhất ở Lãnh Thượng, phái nhì ở Mông Lãnh và Phương Trì. Nay ở Phương Trì là chi I phái nhì, ở Mông Lãnh là chi II phái II. Tuy vậy ở Mông Lãnh cũng có 2 phái: phái nhất và phái nhì. Cách gọi này cần có sự truyền đạt của lớp người lớn tuổi đồng thời lớp trẻ cũng phải tìm hiểu thì mới thông suốt được.
Riêng về hai người con sau của vị Thuỷ tổ là Võ văn Tín và Võ Văn Tu thì qua thời gian đã phải qua đời sớm.
Mộ ngài Thuỷ tổ tiền hiền Võ Chỉ Hiếu được táng ngay tại nguyên xã Mông Lãnh (thuộc thôn Phù Sa ngày nay). Năm Tân Tỵ 1941 con cháu ở 3 xã đã cung kính dựng bia ngài. Trên bia mặt trước và sau đều khắc chữ Hán. Đến năm 1992con cháu lại trùng tu nên phía sau có bia công đức ghi lại lược sử của ngài thuỷ tổ.
Mộ ngài Võ Văn Trí táng ở Lãnh Thượng thuộc xứ đất Trầm Kê nay thuộc thị trấn Đông Phú và được con cháu xây mộ dựng bia rất khang trang.
Mộ ngài Võ Quang Tán trước đây táng tại xứ Phù Sa gần mộ ngài Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu. Năm 1994 con cháu cải táng về Phương Trì và xây dựng bia mộ khang trang.
Năm 1995 con cháu toàn tộc lại phát tâm xây dựng ngôi từ đường kế cận và đối diện với mộ ngài thuỷ tổ. Hằng năm đến ngày mồng 2 tháng 3 âm lích con cháu toàn tộc tề tựu về từ đường để giỗ tổ Tiên hiền và tất cả Chi tiên linh của dòng tộc. Ngày 25 tháng 11 âm lịch là ngày con cháu tảo mộ, tu sửa phần mộ tổ tiên, ông bà. Hiện nay hầu hết mộ chi tiên linh và con cháu trong tộc đã được qui tập về nghĩa địa tại xã Quế Xuân.
Hiện nay tại Lãnh Thượng và Phương Trì con cháu cũng đã xây dựng từ đường, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thờ cúng, hương khói tổ tiên.
Noi theo gương các bậc tiền nhân, để tăng thu nhập cho cuộc sống, ngày nay cọn cháu trong tộc cũng hướng về các tỉnh thành phía Nam để làm ăn sinh sống rải rác ở các nơi như Ninh Thuận, Đồng Nai, Tiền Giang và nhiều hơn là ở thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy vậy, với truyền thống “Uống nước -Nhớ nguồn” “Chim có tổ-Người có Tông” con cháu dẫu đi làm ăn xa nhưng vẫn luôn nhớ về cội nguồn, chung tay góp sức xây đắp mồ mã, kiến thiết nơi phụng thờ khang trang. Tục ngữ nói “Họ chín đời còn hơn người dưng “ thế nhưng từ đời tổ thứ nhất đến nay đã có đến 15-17 đời nhưng vẫn thường xuyên liên hệ giúp đỡ lẫn nhau, các ngày giỗ kỵ con cháu các nơi đều về tham dự đầy đủ. Đó là đạo lý và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nan nói chung và con cháu tộc Võ nói riêng cần phải được duy trì và phát huy mãi mãi .Mong rằng con cháu chúng ta phát huy tinh thần gia tộc, giữ gìn giềng mối, đoàn kết lẫn nhau để xây dựng cuộc sống và gia tộc ngày càng phát triển. Được như vậy tức là chúng ta đã tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với tổ tiên.
Cẩn lục
Võ Anh
(Đời thứ 14 chi II phái II)
Bia công đức ngài Thủy Tổ
TIỂU SỬ NGÀI THỦY TỔ VÕ CHỈ HIẾU THỦY TỔ TIÊN HIỀN TỘC VÕ
Ngài sinh vào nửa đầu thế kỷ 15 tại Thanh Hóa. Đến đời vua Lê Thánh Tông niên Hiệu Quang Thuận ngài vào xã Lương Văn tổng Sư Lỗ huyện Phú Vang Phủ Triệu Phong Đạo Thừa tuyên Thuận Hóa. Nay là xã Thủy Lương, huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế
Năm Kỷ sửu 1469, đầu niên hiệu Hồng Đức ngài lại cùng bốn người con trai vào khai cơ lập nghiệp tại vùng đất Phù Sa ven sông Bà Rén. Tại đây ngài đã cùng với các vị thủy tổ các tộc họ khác kiến lập nên xã Mông Lãnh thuộc tổng Mông Lãnh huyện Diên Khánh phủ Điện Bàn. Nay là xã Quế Xuân huyện Quế Sơn.
Ngài được sắc phong “ĐẶC TẤN TÙNG PHU TIỀN XÃ TRƯỞNG” và về sau lại được sắc phong TIỀN TỔNG CHÁNH.
Ngài còn có công cùng với người con trưởng là Võ Văn Trí khai khẩn vùng đất Bằng Lăng sau biệt lập thành xã Lãnh Thượng, nay thuộc xã Quế Long và thị trấn Đông Phú huyện Quế Sơn.
Người con trai thứ hai là Võ Quang Tán thừa kế sự nghiệp của ngài và sinh hạ con cháu ở hai xã Mông Lãnh và Phương Trì nay thuộc xã Quế Xuân và Quế Phú huyện Quế Sơn.
Hai người con sau là Võ Văn Tín và Võ Văn Tu đã anh dũng hy sinh trong sự nghiệp mở mang bờ cỏi.
Mộ ngài được xây dựng vào trọng đông năm Tân Tỵ 1941
Đại trùng tu vào năm Nhâm Thân 1992
Mộ ngài Thủy tổ đối diện với nhà thờ tộc
Cám ơn quí vị đã ghé thăm website gia phả tộc Võ chúng tôi
Do nắm bắt thông tin chưa được đầy đủ nên chắc hẳn trong quá trình xây dựng websitechắc hẵn còn nhiều thiếu sót
Kính mong quí vị đóng góp thêm ý kiến để website ngày càng đầy đủ và đẹp hơn
Mọi thông tin xin lien hệ với: Võ Văn Mẫn (Thuộc Chi 2 Phái II). thôn Phù Sa xã Quế Xuân I, Quế Sơn, Quảng Nam
Email:
manthcsqx@gmail.com.