LƠÌ THUẬT
Để hiểu khái quát về nguồn gốc của vị Thuỷ tổ Tiền Hiền tộc Võ chúng ta cũng như sự sinh tồn và phát triển của dòng tộc. “Lời thuật” xin tóm lược vài nét chính sau:
Vị Thuỷ tổ tiền hiền tộc Võ chúng ta tên thật là Võ Chỉ Hiếu- 武 止 孝, quê quán tỉnh Thanh Hoá . Thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận, ngài phụng mệnh triều đình vào định cư tại xã Lương Văn thuộc tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong, đạo Thừa Tuyên, Thuận Hoá. Nay là xã Thuỷ Lương, huyện Hương Thuỷ , tỉnh Thừa Thiên Huế. Có lẻ nơi đây đất đai cằn cổi , nước nặm đồng chua nên một lần nữa ngài rời xã Lương Văn.
Năm Kỷ Sửu 1469 đầu niên hiệu Hông Đức , ngài cùng 4 người con là Võ văn Trí, Võ Quang Tán, Võ Văn Tín và Võ Văn Tu vào định cư và lập nghiệp lâu dài ở vùng đất Phù Sa ven sông Bà Rén. Tại đây, ngài cùng các vị thuộc tộc họ khác là Ngô; Phan; Lê; Trương; Đoàn cùng nhau khai khẩn và kiến lập nên xã Mông Lãnh thuộc tổng Mông Lãnh, huyện Diên Khánh , phủ Điện Bàn. Nay là xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.
Một thời gian sau. Vị Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu cùng với người con trưởng là ngài Võ Văn Trí lại tìm đến một nơi về sau gọi là ấp Bằng Lăng (thuộc xã Mông Lãnh) để định cư lập nghiệp lâu dài thêm vùng đất mới nữa. Ngài lại được sắc phong “TIỀN TỔNG CHÁNH”, ngài Võ văn Trí cũng được phong “ĐẶC TẤN TÙNG PHU TIỀN XÃ TRƯỞNG”.
Còn ba người con thứ hai của ngài là Võ Quang Tán (còn gọi là Ấm Tán) sinh cơ lập nghiệp vững chắc trên đất Mông Lãnh. Ngài Võ Quang Tán được sắc phong “TÙNG PHU NHIÊU QUÍ CÔNG”có bản ghi là “MÔNG ÂN TÙNG SỬ NHIÊU THÂN”.Việc khai khẩn lập ấp xong, ngài giao cho người con trưởng là ngài Võ Văn Trí ở lại ấp Bằng Lăng tiếp tục khẩn hoang nên về sau con cháu suy tôn ngài Võ Văn Trí là Tiền Hiền tại làng Lãnh Thượng.
Đến đời thứ 6, cách đây khoảng trên 330 năm, ông Võ Văn Chất , người con cả của ngài Võ Văn Hảo, cháu 4 đời của ngài Võ Quang Tán và là cháu 5 đời của ngài Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu cũng tìm đến một vùng đất mới nữa mà về sau gọi là ấp Phương Trì (cũng thuộc làng Mông Lãnh lúc bấy giờ) để làm ăn sinh sống và lập nghiệp tại đây. Đến đời thứ 9, cách đây khoảng 230 năm, tại ấp Bằng Lăng, ông Võ Văn Khoa là con ông Võ Đình Mười, cháu đời thứ 7 của ông Võ Văn Trí lại trở về Mông Lãnh, nơi vị Thuỷ tổ của chúng ta đặt chân đến lần đầu tiên để làm ăn sinh sống cùng tập thể con cháu ngài Võ Quang Tán mãi đến ngày nay.
Như vậy, tộc Võ chúng ta có 2 phái: Phái nhất ở Lãnh Thượng, phái nhì ở Mông Lãnh và Phương Trì. Nay ở Phương Trì là chi I phái nhì, ở Mông Lãnh là chi II phái II. Tuy vậy ở Mông Lãnh cũng có 2 phái: phái nhất và phái nhì. Cách gọi này cần có sự truyền đạt của lớp người lớn tuổi đồng thời lớp trẻ cũng phải tìm hiểu thì mới thông suốt được.
Riêng về hai người con sau của vị Thuỷ tổ là Võ văn Tín và Võ Văn Tu thì qua thời gian đã phải qua đời sớm.
Mộ ngài Thuỷ tổ tiền hiền Võ Chỉ Hiếu được táng ngay tại nguyên xã Mông Lãnh (thuộc thôn Phù Sa ngày nay). Năm Tân Tỵ 1941 con cháu ở 3 xã đã cung kính dựng bia ngài. Trên bia mặt trước và sau đều khắc chữ Hán. Đến năm 1992con cháu lại trùng tu nên phía sau có bia công đức ghi lại lược sử của ngài thuỷ tổ.
Mộ ngài Võ Văn Trí táng ở Lãnh Thượng thuộc xứ đất Trầm Kê nay thuộc thị trấn Đông Phú và được con cháu xây mộ dựng bia rất khang trang.
Mộ ngài Võ Quang Tán trước đây táng tại xứ Phù Sa gần mộ ngài Thuỷ tổ Võ Chỉ Hiếu. Năm 1994 con cháu cải táng về Phương Trì và xây dựng bia mộ khang trang.
Năm 1995 con cháu toàn tộc lại phát tâm xây dựng ngôi từ đường kế cận và đối diện với mộ ngài thuỷ tổ. Hằng năm đến ngày mồng 2 tháng 3 âm lích con cháu toàn tộc tề tựu về từ đường để giỗ tổ Tiên hiền và tất cả Chi tiên linh của dòng tộc. Ngày 25 tháng 11 âm lịch là ngày con cháu tảo mộ, tu sửa phần mộ tổ tiên, ông bà. Hiện nay hầu hết mộ chi tiên linh và con cháu trong tộc đã được qui tập về nghĩa địa tại xã Quế Xuân.
Hiện nay tại Lãnh Thượng và Phương Trì con cháu cũng đã xây dựng từ đường, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thờ cúng, hương khói tổ tiên.
Noi theo gương các bậc tiền nhân, để tăng thu nhập cho cuộc sống, ngày nay cọn cháu trong tộc cũng hướng về các tỉnh thành phía Nam để làm ăn sinh sống rải rác ở các nơi như Ninh Thuận, Đồng Nai, Tiền Giang và nhiều hơn là ở thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy vậy, với truyền thống “Uống nước -Nhớ nguồn” “Chim có tổ-Người có Tông” con cháu dẫu đi làm ăn xa nhưng vẫn luôn nhớ về cội nguồn, chung tay góp sức xây đắp mồ mã, kiến thiết nơi phụng thờ khang trang. Tục ngữ nói “Họ chín đời còn hơn người dưng “ thế nhưng từ đời tổ thứ nhất đến nay đã có đến 15-17 đời nhưng vẫn thường xuyên liên hệ giúp đỡ lẫn nhau, các ngày giỗ kỵ con cháu các nơi đều về tham dự đầy đủ. Đó là đạo lý và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nan nói chung và con cháu tộc Võ nói riêng cần phải được duy trì và phát huy mãi mãi .Mong rằng con cháu chúng ta phát huy tinh thần gia tộc, giữ gìn giềng mối, đoàn kết lẫn nhau để xây dựng cuộc sống và gia tộc ngày càng phát triển. Được như vậy tức là chúng ta đã tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với tổ tiên.
Cẩn lục
Võ Anh
(Đời thứ 14 chi II phái II)
|