GIA

PHẢ

TỘC

Họ
Nguyễn
làng
Thanh
Khê,Yên
Nhân
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
TRUYỀN THUYẾT TÔNG TỘC

Đông Cầu sử tích

Hoàng triều Hồng Đức nhị niên (1471)
Nguyễn Công thuỷ tổ tới miền Thanh khê
Quân điền, trị thuỷ, bồng đê
Giỏi canh mục, lại thạo nghề kiếm cung
Đỗ tạo sỹ, nổi danh hùng
Vua ban chức Vệ quận công thị triều
Vinh quy bái tổ quê nghèo
Vừa tới Đông Kiều, Ngài bỗng hoá thân
Đất thiêng linh ứng thần nhân
Dân chúng xa gần, dựng miếu, dâng hương
Hậu duệ đời thứ 8, tổng giáo Nguyễn Công Thuỳ phụng bút
Thanh khê , mùa đông năm 1995 Nho sinh Hà Văn Kế ( 81 tuổi) dịch
Hậu duệ đời thứ 14, nhà giáo Nguyễn Hoàng Giang hiệu đính. Hậu duệ đời 14, Nguyễn Quốc Đào tiến cúng văn bia. Thợ đá Ninh Bình khắc chữ, trưng ở Từ Đường
Lời tựa cho bản dịch bài thơ Đông Cầu sử tích
Ngài tổ khai sáng dòng họ Nguyễn ở thôn Thanh khê, xã Yên Nhân hiện nay, không rõ từ đâu đến, trong đoàn quân khai hoang, lấn biển, đắp đê Hồng Đức theo chế độ quân điền. (Hiện nay đê còn di tích là các gò đồng vòng, nối dài các xã Yên Trị, Yên Đồng, Yên Nhân, với các miếu canh, các cây đa cổ thụ cho người làm đồng ngồi nghỉ... mới bị dân đào phá, lấy hết đất làm gạch vài năm nay )
Quân điền là hình thức lấy lính nghĩa vụ để làm phu dịch, nhưng vừa để thị uy, trấn áp những tội đồ của triều đình cũng làm lao dịch ở kế bên ( Phạm xá) Tuy nhiên, phạm lúc bấy giờ không hoàn toàn là người xấu cả. gài được xung vào lính đi chinh phạt phương Nam..Trong gian lao, hiểm nguy, tài năng, đức độ của Ngài phát lộ và trọng dụng: bảo vệ xa giá.. Được vua ban phong: Đặc tiến phụ quốc với chức Vệ quận công. Tiếc rằng, chưa có nhiều điều kiện phò Vua, giúp đời, thì vào buổi trưa ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Tý (1492), trên đường về thăm quê hương, ngài đã băng trên cánh đồng dộc giáp ranh làng Tràn và Thanh khê .Tương truyền, thật lạ kỳ, mưa gió sấm chớp nổi lên mù mịt. Khi tạnh đã thấy mối đùn thành gò phủ bao kín cả người và ngựa. Nhân dân làng Tràn (Do gọi chệch của từ Trần xá, vốn là làng đã có từ thời Trần ) đã lập miếu thờ Ngài là phúc thần, quanh năm hương khói.
Vào những năm 1965-1966, ảnh hưởng phong trào Cách mạng văn hoá, miếu thờ bị phá dỡ đi làm trại chăn nuôi lợn tập thể; nhưng uy linh Ngài vẫn hiển hiện và sống mãi với cháu con và dân chúng trong vùng. Vì vậy, từ năm 1997, được phép của chính quyền sở tại, nhân dân hai làng bỏ công tu tạo lại miếu thờ Ngài. Thiết nghĩ, cũng nên phô diễn bài thơ Nôm "Đông cầu sử tích" của cụ tổng giáo, hậu duệ đời thứ 8 phụng trong gia phả ra Quốc ngữ để con cháu và khách thập phương chiêm ngưỡng. Rất may có cụ Hà Văn Kế là bậc túc nho trong vùng, (Lúc này cụ 81 tuổi, chỉ tự nhận là nho sinh, vì chưa đỗ đạt ) giúp đỡ, bài thơ đã được dịch và hiệu chỉnh. Tiếp đến hậu duệ thứ 14, ông Nguyễn Quốc Đào, phát tâm công đức, thuê thợ đá Ninh Bình khắc chữ , trưng bày ở Từ đường bản họ.
Ngày 22 tháng 12 năm 1998 Ngườ viết Nguyễn Hoàng Giang
Tài liệu tham chiếu :LỊCH SỬ HAY TRUYỀN THUYẾT
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Canh Dần, Hồng Đức năm thứ 1 (1470) tuyển các vũ sĩ vệ Kim Ngô đi bắt giặc biển. Tháng 2 tuyển đinh tráng bổ vào quân ngũ...Tháng 8, quốc vương Chiêm Thành là Bàn La trà Toàn thân đem quân thuỷ bộ voi ngựa hơn 10 vạn đánh úp châu Hoá... Tháng 9 có sắc chỉ rằng: Hạng hoàng đinh 12 tuổi đã phải chọn lấy sung vào quân ngũ, đổi làm 15 tuổi trở lên,khai làm con trai hạng lớn.Có sắc dụ Thừa tuyên sứ phủ Thiên Trường rằng: Dẹp loạn chẳng gì bằng dụng võ, quân mạnh là ở đủ lương ăn. Sắc cho bọn ngươi phải trưng thu ở các quân sắc lại sinh đồ mỗi người 15 ống gạo,hạng hoàng đinh và người già mỗi người 12 ống gạo... Ai dám thiếu thốn thì chém đầu.Tháng 11, sửa định chính lệnh về việc hành binh 52 điều. Định lệnh xa giá đi đâu không ai được nói phao và giả trá. Ngày mồng 6, vua xuống chiếu thân đi đánh Chiêm ThànhTháng 12, ngày 18 thuỷ quân vào đến đất Chiêm Thành. Tân mão, năm thứ 2(1471).Mùa Xuân, tháng giêng, ngày mồng 2, Vua thân làm sách lược bình Chiêm ban cho các dinh, sai chỉ huy là Nguyễn Thế Mỹ dịch ra quốc ngữ nhắc lại(Đoạn kế tiếp mô tả chi tiết trận đại chiến quân Chiêm thắng lơi, bắt sống được vua Chiêm)...trang 385 chép:Đặt 2 vệ Cẩm Y và Kim Ngô.Dũng sĩ vệ Cẩm Y từ ty lực sỹ đến Kỳ bài cộng 20 ty, có chức phó quân, đều không có quân ngũ ,chỉ có từ ban một đến ban tám. Võ sĩ vệ Kim Ngô từ ty lực sỹ đến ty Thần tý cùng với trung, tiền, tả hữu, hậu cộng là 100 ty. Lại đặt các ty Thần vũ Điện tiền, đặt các quân năm phủ Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc. Lại đặt quân chính và quân giới
Tân hợi năm thứ 22 (1491)- Minh Hoàng Trị thứ 4
mùa xuân, tháng 2, các quan theo hầu vua về Tây kinh.
Tuyển người mạnh khoẻ, bổ sung quân ngũ, thải người già.
mùa hạ, tháng 5 định lệnh về những người trở về làng vào sổ khác. Phàm những người trở về làng mà quán còn ở xã cũ thì đến khi viết sổ, quan phủ, huyện, xã trưởng và quan lại thủ lĩnh phải so sánh để khiến phù hợp.
Qua tài liệu trên,ta phỏng đoán, ngài thuỷ tổ họ ta thuộc hàng dũng sĩ vệ Cẩm Y( lập công tại chiến trận) khác với võ sĩ vệ Kim Ngô ( qua thi đấu để tuyển dụng). Song bài thơ"Đông cầu sử tích " do các cụ để lại có câu" Đỗ tạo sĩ nổi danh dùng" làm chúng ta phân vân suy luận, có lẽ cụ thuộc hàng vệ Cẩm Y, được phái sang dạy và cũng thi để xếp thứ bậc(?), tương tự như các sỹ quan trưởng thành trong chiến tranh về tu nghiệp tại Học viện quân sự ngày nay) Và rồi vào ngày 24/4 năm Nhâm Tý (1492) cũng hồi hương (hoặc thăm quê) và băng khi về đến đầu làng?
Sự sống bất diệt của truyền thuyết dân gian trong vùng, sự linh ứng hiển hiện qua mỗi lần tàn phá hoặc bất kính nơi thừa tự của Ngài, trải qua thời gian làm cho nhân vật lịch sử được thần thánh hoá, nên về sau đã được một số đời vua ban sắc phong "Đông cầu linh ứng đại vương". Ngày nay, con cháu không còn tận mắt nhìn các sắc phong do trận bom giặc Pháp đánh trúng từ đường năm 1951, không còn nhìn thấy gò Con Ngựa um tùm cây cối, nhưng nay miếu Đông Cầu đã được phục dựng (1997); sự thành kính của con cháu, của nhân dân làng Tràn và khách thập phương vẫn không hề mai một.
Có một sự ngẫu nhiên kỳ lạ, trải qua các cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ tổ quốc thế kỷ 20 vừa qua, con cháu của Ngài tòng chinh xuôi Nam, ngược Bắc, kẻ ít, người nhiều... vẫn nguyên vẹn trở về, cũng như trước đây các thế hệ cha anh cũng từng được phúc ấm tổ tiên hằng che chở./.
Gia Phả Họ Nguyễn làng Thanh Khê,Yên Nhân
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Họ Nguyễn làng Thanh Khê,Yên Nhân.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Họ Nguyễn làng Thanh Khê,Yên Nhân
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.