GIA

PHẢ

TỘC

PHAN
VĂN
LÀNG
TRÚC
LÂM
-
HUẾ
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
潘 族 越 南
PHAN TỘC VIỆT NAM

潘 文 族 竹 林
PHAN VĂN TỘC TRÚC LÂM
第 一 派
ĐỆ NHẤT PHÁI
GIA PHẢ
HỌ PHAN VĂN TRÚC LÂM
PHƯỜNG HƯƠNG LONG
THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ.
Lời nói tiêu biểu của họ tộc:
“ĂN QUẢ PHẢI NHỚ CÂY AI TRỒNG, UỐNG NƯỚC PHẢI TƯỞNG NGUỒN ĐÂU LẠI”
Các ngày lễ giỗ:
• Ngày tế xuân: 14 tháng 2 Âm lịch
• Ngày tế thu: 14 tháng 8 Âm lịch
• Ngày hội mả: 22 tháng 3 Âm lịch

Tổng quan gia phả:
• Số đời từ thuỷ tổ đến con cháu là 12
• Số lượng các gia đình từ thuỷ tổ đến con cháu là 566
• Số lượng các người từ thuỷ tổ đến con cháu là 566

Thông tin nguời đưa Gia Phả này lên trang Web Vietnamgiapha.com
• Nguời làm: Ông Phan Văn Thảo.
• Ở tại: Trúc Lâm, Hương Long, Huế, Thừa Thiên Huế
• Điện thoại: 0917727630 - 0901129004
• Email liên lạc: https://www.facebook.com/thison.phan.3 hoặc Gmail: thiuyt@gmail.com
潘 族 越 南
PHAN TỘC VIỆT NAM
潘 文 族 竹 林
(PHAN VĂN TỘC TRÚC LÂM)
第 一 派
(ĐỆ NHẤT PHÁI)
LỜI TỰA:
Người đời có câu: “Thả mộc tắc hữu bổn, thủy tắc hữu nguyên. Huống ư ngô nhân khải vô sở thủy?”
Thiết nghĩ:
Cây có nghìn cành, muôn lá sum suê, xanh tốt là nhờ có gốc rễ. Nước có nhiều dòng vốn xuất phát từ một nguồn mà ra. Suy xét trong muôn vật, hiện tượng đều có cội nguồn, gốc rễ. Huống hồ con người ta sinh ra vốn không từ tổ tông ư?
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Công ơn của tổ tiên như non cao bể cả, chúng ta biết phải làm gì để đền đáp công ơn vô biên sinh thành và dưỡng dục ấy? Nếu chúng ta không biết rõ nguồn gốc, lịch sử tổ tiên, thứ lớp các thế hệ, những ngày giỗ của tiền nhân… thì kẻ kế tục hậu thế biết căn cứ vào đâu mà tìm về nguồn cội ?
Họ Phan Việt Nam nói chung và Họ Phan Văn Trúc Lâm của chúng ta nói riêng, tuy sống nhiều nơi khác nhau, có tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, có tập quán khác nhau… nhưng lại chung một cội nguồn, huyết thống. Hàng trăm năm trôi qua, chắc chắn rằng, tổ tiên của chúng ta đã rất gian khổ, vất vả để đấu tranh sinh tồn, phát triển và duy trì nòi giống cho đến ngày hôm nay.
Vì vậy, mỗi chúng ta luôn phải biết rằng:
“Ăn quả phải nhớ cây ai trồng,
Uống nước phải tưởng nguồn đâu lại.”
Bổn phận của mỗi một chúng ta là phải gương mẫu thực hiện lời di huấn của tổ tiên và giáo dục con cháu đời sau cần hết lòng thờ phượng tổ tiên, tiếp tục ghi chép cập nhật thường xuyên vào tộc phổ. Đó là việc làm thiết yếu để phần nào đền đáp công ơn trời bể của tổ tiên vậy.
(Trích Gia phả gốc)

Bắt nguồn từ lòng nhớ ơn vô bờ bến đối với những bậc tiền bối của chúng ta đã đem mồ hôi nước mắt và cả xương máu để khai sinh lập địa, tạo dựng cơ nghiệp truyền lại cho con cháu chúng ta đến hôm nay. Chúng tôi, phát tâm phụng biên bản Gia phả của dòng họ Phan Văn thuộc làng Trúc Lâm, phường Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, với nhằm mục đích góp một phần công lao nhỏ bé của mình để thành tâm dâng lên Tông tổ, cầu mong cho con cháu tộc họ trường tồn và đời đời bền vững. Dẫu biết rằng, sẽ còn nhiều thiếu sót trong việc phụng biên sao chép lại bản Gia phả này, nhưng với tâm nguyện muốn lưu truyền lại cho con cháu đời sau có cơ hội tìm gặp và hiểu biết được những kiến thức sơ đẳng về lịch sử của tổ tiên ông bà dòng họ Phan Văn qua trang Web Vietnamgiapha.com, nên đã cố gắng hết khả năng của mình để thực hiện cho bằng được. Thiết nghĩ: Ở bất cứ nơi đâu, bất cứ chế độ nào, lịch sử của tổ tiên đều là cội nguồn, gốc rễ của con người. Nếu có điều kiện phổ hệ, ghi chép, thì sẽ giúp chúng ta biết và tự hào về tổ tông của mình, là cơ sở để lưu truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do vậy, gia phả cũng là một tư liệu không kém phần quan trọng về lịch sử giống nòi. Tôi mạo muội được mượn hai câu chữ hán của tiền nhân để nói lên sự tự nhiên của tạo hóa và lòng tri ân sâu sắc của hậu thế đối với các bậc tiền bối cũng như để tán dương sự thịnh vượng của dòng họ chúng ta qua bao đời thăng trầm và phát triển ở nhiều nơi:
木 本 水 源 恩 莫 惻
木 從 根 處 發 方 枝.
“Mộc bổn thủy nguyên ân mạc trắc.
Mộc tùng căn xứ phát phương chi.”
Để nói rằng: Cây có cội, nước có nguồn và công ơn to lớn của Tổ tiên thì không tài nào đo lường được. Trong quá trình sao chép những tư liệu, thông tin về gia phả của họ Phan Văn, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót sơ đẳng về dữ kiện lịch sử. Chúng con xin Trưng tiến hiển linh tổ tiên, ông bà, minh chứng và tha thứ những thiển cận, thiếu sót vô tình của chúng con. Kính mong các vị cao niên, các thành viên trong dòng tộc chỉ giáo, bổ sung và hiệu đính để gia phả của chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn quý ông bà, chú bác, anh chị và con cháu hiện tiền thuộc dòng họ Phan Văn đang ở khắp mọi nơi, nếu còn nhớ được chính xác lịch sử của dòng họ, hoặc phát hiện được những thiếu sót trong gia phả này, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi, giúp chúng tôi kịp thời sửa chữa, hiệu đính và cập nhật lại những sai sót về thông tin của bản gia phả của chúng ta.
Người viết gia phả này chỉ có một ước nguyện là làm sao cho mọi thành viên trong họ tộc dù sống bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam hoặc ở các nước khác trên thế giới đều có thể truy cập để nhận biết, liên hệ, thông tin cho nhau, tìm đọc và bổ khuyết các thiếu sót, quan tâm thường xuyên đến việc cập nhật tư liệu mới vào gia phả của chúng ta, đặc biệt là các thế hệ sau này.
Việc cập nhật gia phả là một việc làm cần có thiện chí, đòi hỏi nhiều công sức và thời gian của nhiều người, nhiều đời nối tiếp nhau. Đòi hỏi người chủ nhà, trưởng Chi, trưởng Họ ở mỗi thế hệ kế tiếp cần nổ lực, dốc sức mình để thực hiện cho đầy đủ. Nếu ai lơ đãng hoặc bỏ quên thì tự mình đánh mất lịch sử truyền thống của dòng họ mình và tự đánh mất cả chính mình.
Với sự hiểu biết hữu hạn của mình, người viết chỉ có thể bắt đầu từ những tài liệu và thông tin đang sẵn có trong tay. Vì vậy, kính mong mọi thành viên trong dòng tộc cùng giúp sức hoàn thành gia phả này bằng cách: phổ biến việc đang phụng biên gia phả này đến với mọi nhà, mọi người nhằm cung cấp các thông tin liên quan đến bản thân và gia đình, hoặc thông tin về các thành viên trực hệ đã qua đời để cập nhật cho liên tục.
Mục đích yêu cầu viết và cập nhật gia phả lần này là:
1/ Để trong Họ Tộc Phan Văn, trước mắt là Phái thứ Nhất có quyển gia phả tổng hợp, hoàn chỉnh, có hệ thống, có tính kế tục từ Ngài Thủy Tổ đến nay.
2/ Làm cơ sở để tiếp tục phụng biên toàn tập cuốn Gia phả Họ Phan Văn Trúc Lâm trong dịp tới.
3/ Biên soạn, điều chỉnh và cập nhật thêm, chuyển lưu trên mạng Internet theo địa chỉ: http://wwwVietnamgiapha.com để lưu giữ muôn đời, tạo điều kiện cho con cháu nhân rộng bản gốc làm bản riêng cho gia đình.
4/ Lưu lại, đóng thành tập, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm đã cập nhật để làm cơ sở cho việc cập nhật lần sau.
NỘI DUNG CÔNG VIỆC PHỤNG BIÊN:
- Tổng hợp các cuốn gia phả, bản dịch của đời trước để lại.
- Truy vấn, tham khảo, xác minh các tư liệu từ người lớn tuổi trong họ, trong làng, trong địa phương và các tộc hữu.
- Thống nhất thành một quyển, thống nhất thành một nội dung.
- Ghi lại, điều chỉnh có ghi chú những nhầm lẫn trong bản sao các lần phụng biên trước đây.
- Cập nhật thêm thông tin về thân thế, sự nghiệp của các thành viên phát triển từ đời thứ 10, 11 và 12.
- Trình bày khoa học, theo trình tự từ lớn đến nhỏ, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, dễ tra tìm. Hệ đồ gia phả đánh số phát triển theo đời, dễ so sánh. Toàn bộ gồm 5 nội dung như sau: 1. Tộc ký; 2. Tộc sử; 3. Gia phả; 4. Phả đồ; 5. Tộc ước.
Gia phả này được viết lại và trích sao qua bản gốc từ ngày 26 tháng 3 năm Ất Hợi và hoàn thành vào ngày 22 tháng 3 năm Mậu Tý (2008)
Người viết gia phả này, một lần nữa xin chân thành cảm ơn các tộc hữu, ông bà, chú bác, anh chị, con cháu nội ngoại gần xa đã nhiệt tình giúp đỡ, cổ vũ, chỉ bảo, đóng góp ý kiến để chúng tôi hoàn thành viên mãn cuốn gia phả này.
Công việc này sẽ còn được tiếp tục để hoàn chỉnh, rất mong con cháu cập nhật bổ sung. Nếu có điều gì còn thiếu sót, sơ suất hoặc nhầm lẫn xin tổ tiên minh chứng và hỷ xá, mong bà con họ tộc lượng thứ.
*Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng chuyển đến địa chỉ:
Ông Phan Văn Thảo: Thôn Trúc Lâm, Phường Hương Long, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Số điện thoại: 0917727630 - 0901129004, hoặc đóng góp ý kiến theo địa chỉ:
thiuyt@gmail.com. Facebook: Thi Sơn Phan
https://www.facebook.com/thison.phan.3
Trúc Lâm, ngày 12 tháng 5 năm 2007
(Ngày 26 tháng 3 năm Ất Hợi)
Thành viên đời thứ Chín phụng biên.
Phan Văn Thảo
Pháp danh: Nguyên Thư.
(Hiệu đính và cập nhật tháng 5 năm 2021)
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN HỌ PHAN
Như ta đã biết, họ Phan thấy xuất hiện vào thời Kinh Dương Vương với ông Phan Ðô và vào thời Vua Hùng thứ 18 với ông Phan Tây Nhạc, đều gốc ở Ái Châu (Thanh Hóa). Theo truyền thuyết vào đầu đời Nhà Chu (1066 TCN) tại một bộ tộc phía nam sông Trường Giang (Dương Tử Giang) gần hồ Phiên Dương, vùng đất Việt Thường thuộc Dương Việt (Giang Tây) có người tù trưởng giỏi nghề cấy lúa, biết lợi dụng sông ngòi, lấy nước vào ruộng, tránh được nạn hạn hán làm cho mùa màng tươi tốt, nhân dân no đủ, ai cũng mến phục. Tin ấy truyền về vua Chu, Chu bèn mời người đó về triều giúp đỡ nhân dân cách dẫn nước vào ruộng cấy lúa nước, dần dần nhân dân sung túc, thiên hạ thái bình. Ðể đền ơn, lúc người ấy về bộ tộc, vua Chu cho được hưởng ruộng lộc tức là thái điền ở bộ tộc đó và đặt tên họ ghép 2 chữ thái điền với ba chấm thủy đọc là chữ "Phan". Họ Phan bắt đầu ra đời từ đấy. Người tù trưởng đó là Tất Công họ Phan, bộ tộc Phan.
DÒNG HỌ VỊ THỦY TỔ PHAN HÁCH
(Sinh khoảng 1250)
Ông Phan Hách gốc Thừa Tuyên Thanh Hóa vào ấp Ðan Chế, huyện Hà Ba (tức là Hà Hoa nay ở Hà Tĩnh) xuất thân là một nhà nho nghèo, thông minh hiếu học, lấy văn cương làm sự nghiệp, làm chức Trần Triều Vương phó sư, bà vợ là Cao Thị Tân, sinh được 6 người con trai và 2 con gái, nhưng thành tuyền về sau chỉ có hai ông là Phan Hắc, Phan Nhiên, và một người con gái lấy chồng họ Ðinh. Do thời tao loạn, con cháu ông phải dời lên sinh cơ lập nghiệp ở xã Quyết Viết, tổng Việt Yên, huyện La Sơn (tức là xã Tùng Mai, nay là xã Ðức Yên, huyện Ðức Thọ, tình Hà Tĩnh) và dời mộ ông Phan Hách lên táng tại địa điểm này.
Về đời, lấy ông Phan Hách làm đời thứ I, thì con:
Ðời thứ II Phan Hức-Hắc sinh Cá Tràu (III)
-Cá Tràu sinh Cá Bống (IV)
-Ðức Dụ sinh Phúc Tường và Phúc Khánh (VI)
-Phúc Tường sinh BáCung (VII đời Hồ)
-Phúc Khánh sinh Phúc Ða (VII đời Hồ)
-Bá Cung sinh Phúc Hiệu (VIII)
-Phúc Ða sinh Phúc Dư (VIII)
Ðời thứ II dòng thứ ông Phan Nhiên sinh Phan Tần (III)
-Tần sinh Nghinh (IV)
-Nghinh sinh Ðặng (V)
-Ðặng sinh Mặc (VI)
-Mặc sinh Sơn Phủ (VII thời Lê)
-Sơn Phủ sinh 4 con (đời VIII) là:
- Phan vụ Bổn (VIII) làm Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Anh liệt tướng quân (thời Lê Hồng Ðức 1460-1497).
- Phan Dư Khánh (VIII) đỗ tiến sĩ năm Lê Hồng Ðức thứ 32 (1481)
- Phan Phúc Cẩn (VII) đỗ tiến sĩ năm Lê Hồng Ðức thứ 26 (1475)
- Phan Khắc Kỳ (VIII) 25 tuổi đậu Hương cống khoa Bính Ngọ (1486) làm Cẩm y vệ chỉ huy kiểm sự quạn công; đến thời thứ VIII nay con cháu đông, lại nhiều nhà khoa bảng triều quan, nên phân chi phái lập từ đường riêng để thờ tự.
Dòng trưởng, con cháu ông Phan Hắc, đến đời thứ VIII là Phúc Hiệu làm tổ dòng Phái Giáp.
Dòng trưởng con cháu ông Phan Hắc, đời VIII là Phúc Dư làm tổ dòng phái Ất.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Vụ Bổn làm tổ đóng Phái Tý.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Dư Khánh, tổ dòng Phái Sửu.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Phúc Cẩn tổ dòng Phái Dần.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Vụ Bổn làm tổ dóng Phái Tý.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Dư Khánh, tổ dòng Phái Sửu.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Phúc Cẩn tổ dòng Phái Dần.
Dòng thứ, con cháu ông Phan Nhiên, đời thứ VIII là Phan Khiết Kỷ tổ dòng Phái Mão.
Con cháu các dòng phái nói trên về sau có nhiều người phát đạt thịnh vượng.Hậu duệ ông
Phan Hách đến khoảng cuối đời Trần có ông Phan Quang Minh chưa xác minh được thuộc thế thứ dòng nào, chỉ biết theo một vài tư liệu phổ ký nói ông Phan Quang Minh có công đánh giặc Chiêm Thành được phong chức thống lĩnh Ðại tướng quân, ông Phan Quang Minh có 6 người con trai mà 4 người làm nên sự nghiệp lớn và di cư đi các nơi khác.
Con trưởng: Phan Phu Tiên dời ra ở làng Ðông Ngạc huyện Từ Liêm Hà Nội, đỗ tiến sĩ mở ra dòng họ Ðông Ngạc.
Con thứ 3: Phan Viết Bao vào Thuận Hóa khai canh lập ấp làng An Nông (Thừa Thiên) giỗ cúng là 24-1 âm lịch.
Con thứ 5: Phan Viết Ngư vào Thuận Hóa khai canh làng Phù Bài (Thừa Thiên) giỗ cúng là 23-4 âm lịch.
Con thứ 6: Phan Viết Nội vào Thuận Hóa khai canh làng Hà Trung (Thừa Thiên) giỗ cúng là 29-6 âm lịch.
Ðời con ông Phan Viết Bao là Phan Viết Nhân U cũng theo đi đánh giặc Chiêm Thành, lúc trở về cũng ở lại khai canh làng Lương Viện (Thừa Thiên) giỗ cúng là 30-9 âm lịch.
Thời Lê Hồng Ðức, cũng nói là Hậu duệ ông Phan Hách không rõ dòng phái thế hệ nào có ông Phan Hiêm cùng 2 con là Phan Ðường và Phan Lãng vào đánh chiếm thành lúc về cũng ở lại khai canh vùng Thuận Hóa: ông Phan Ðường khai canh làng Diêm Khánh, tỉnh Quảng Trị - ông Phan Lãng vào đánh chiếm thành lúc về cũng ở lại khai canh làng Hồng Ân sau đổi là làng Hồng Phúc nay là Thanh Phước (Thừa Thiên) con cháu ông này phát triển, nay ở các làng Thạch Bình (Sịa), Thanh Phước, Diên Lộc gần Mai Vĩnh (Thừa Thiên).
Các ông nói trên về sau được các triều vua phong sắc là "Tiền vị khai canh".
Năm Chính Trị nguyên niên, Mậu Ngọ (1558) đời vua Lê Anh Tông có ông Phan Văn Tề là cháu 4 đời của phó tiến sĩ Phan Dư Khánh, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, khai canh lập ấp làng Mai Vĩnh (Thừa Thiên) sau được truy phong là "Tiền tổ khai canh". Dòng họ ông Phan Hách hiện nay ở Hà Tĩnh có 6 chi như đã nói trên: Giáp, Ất, Tý, Sửu, Dần, Mão, đa số ở Ðức Thọ con cháu đông đúc thịnh vượng. (Sưu tầm)
ĐẶC ĐIỂM TRONG BIÊN PHỤNG CỦA HỌ PHAN VĂN Ở TRÚC LÂM:
1. Nguồn gốc làng Trúc Lâm:
Làng Trúc Lâm trước đây gọi là xã Trúc Lâm thuộc huyện Kim Trà. Năm 1469 (Kỷ Sửu) niên hiệu Quang Thuận thứ 10, vua Lê Thánh Tông khi đặt Thừa Tuyên (Tỉnh), Thuận Hóa (Xứ) thì đã có huyện Kim Trà rồi. Xứ Thuận Hóa có 2 phủ là Tân Bình và Triệu Phong, 7 huyện, 4 châu. Từ năm 1469 đến năm 1533 (Quý Tỵ) mới thấy ghi nhận danh sách đầy đủ 60 xã, thôn của huyện Kim Trà, trong đó có Xã Trúc Lâm đứng thứ 26 ghi trong danh sách Ô châu Cận lục do Tiến sĩ đời nhà Mạc là Dương Văn An nhuận sắc và tập thành. Công trình của tác giả (Vô danh thị) này và công lao của Dương Văn An đã mở ra cho chúng ta thấy rõ cả một vùng đất xa xưa trong quá khứ mà các địa danh rất quen thuộc như Trúc Lâm, An Ninh, Xuân Hòa, Lựu Bảo, La Chữ...vẫn tồn tại, lưu truyền trong dân gian cho đến ngày nay. Năm 1558 (Mậu Ngọ), dưới triều vua Lê Anh Tông (1557-1573) niên hiệu Chính Trị năm thứ nhất, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng phụng chỉ nhà vua vào trấn thủ đất Thuận Hóa, vì kỵ tên của thân phụ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim mới đổi Kim Trà thành Hương Trà. Dưới triều Gia Long, địa bạ của Dinh Quảng Đức (sau là phủ Thừa Thiên) được lập vào các năm 1810-1818 thì Thừa Thiên có ba huyện là Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền. Huyện Hương Trà có 5 tổng, trong đó có tổng An Ninh kiêm quản một số xã như Trúc Lâm, An Ninh và một phường gọi là An Ninh phụ lũy phường. Theo Đại Nam nhất thống chí năm 1834 (Giáp Ngọ), Minh Mạng thứ 15, phủ Thừa Thiên có 6 huyện gồm 3 huyện cũ và 3 huyện mới được tách ra là Phong Điền, Hương Thủy và Phú Lộc. Riêng huyện Hương Trà kiêm quản 6 tổng, trong đó có tổng An Ninh, xã Trúc Lâm và các xã khác.
Đến Năm 1910 (Canh Tuất) niên hiệu Duy Tân thứ 4, phủ Thừa Thiên có 6 huyện, 31 tổng và 457 làng. Huyện Hương Trà có 6 tổng, 103 làng và 8823 dân đinh (đàn ông từ 18 đến 49 tuổi). Tổng An Ninh hồi đó có 11 làng với 1421 dân đinh, trong đó có các làng như An Ninh Hạ, An Ninh Thượng, Trúc Lâm, Kim Long, Xuân Hòa...Như vậy các làng, xã nêu trên là một đơn vị cơ sở của tổng An Ninh ra đời từ năm 1910 và tồn tại cho đến năm 1970 mới đổi thành xã Hương Long thuộc quận Hương Trà. Xã Hương Long vào năm 1970 có diện tích khoảng 18,5 km2, dân số 14.107 người. Từ năm 1970 về sau, các làng như Trúc Lâm, An Ninh Thượng, An Ninh Hạ ...đổi thành thôn Trúc Lâm và thuộc Quận Hương Trà, sau đó thuộc Huyện Hương Điền, rồi thuộc Thành phố Huế, tỉnh Bình Trị Thiên. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng cho mở rộng địa bàn thành phố Huế, gồm có 19 phường, 4 xã, trong đó có xã Hương Long trực thuộc thành phố Huế, tách khỏi Huyện Hương Trà. Thôn Trúc Lâm là đơn vị cơ sở của xã Hương Long ngày nay.
Nói đến lịch sử thành lập làng, căn cứ vào một số Gia phả của họ, phái trong làng và những câu đối tại miếu thờ Ngài Khai canh hiện đang thờ tại làng Trúc Lâm:
“Nhân ư Hồng Đức di dân thỉ
Công bỉ Thần Nông bá cốc sơ”
仁 於 鴻 德 移 民 始.
功 比 神 農 播 轂 初.
Di dân vào từ đời Hồng Đức, tổ tiên đã mở rộng đất đai như tích một người xưa dùng vỏ lúa (trấu) vãi ra để chiếm lấy đất đai.
Và câu đối ở nhà thờ họ Trần Quang:
“Hồng Đức thỉ di dân triệu bồi căn bổn cố
Cộng hòa tái tu tạo lương đống cán chi vinh”
鴻 德 始 移 民 肇 培 根 本 固.
共 和 再 修 造 樑 棟 幹 枝 榮.
Chúng ta có thể biết được đời trước tổ tiên chúng ta ở các tỉnh đàng ngoài, bắc trung bộ theo dòng chảy lịch sử nam tiến, dừng chân tại xứ Thuận Hóa vào năm Canh Dần (1470), đầu đời Hồng Đức tức vua Lê Thánh Tông của nhà Hậu Lê.
Ngoài ra còn có hai câu đối sau, nói lên sự hình thành của làng ta:
“Trúc thụ kiến hương thôn khỉ tự Hồng Đức di dân thỉ
Lâm mãng thành điền trạch định cư lập nghiệp vĩnh cơ đồ”
竹 樹 建 鄉 村 起 自 洪 德 移 民 始. (1)
林 莽 成 田 宅 定 居 立 業 永 基 圖. (2)
Nội dung:
(1)Trồng tre, dựng làng xóm kể từ khi di dân vào Thuận Hóa, đầu đời Hồng Đức vua Lê Thánh Tông, năm Canh Dần (1470)
(2)Phá rừng hoang, cỏ rậm thành ruộng lúa và nhà cửa, ổn định cuộc sống, dựng cơ nghiệp lâu dài.
Trong lời tựa ở cuốn gia phả Họ Trần Quang, phái 4 có câu sau đây do ông Trần Quang Huy (1770-1815) đời thứ sáu, làm quan dưới triều Nguyễn Gia Long với chức vụ Lễ Bộ Thái Thường Giám thiếu khanh viết vào năm Gia Long thứ 12 năm Quý Dậu (1813), ngài tổ họ Trần chiếm lấy đất này ở bổn xã là làng Trúc Lâm, tổng An Ninh, huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.
Thuở xưa, nơi đây đất rộng người thưa, ngài khai canh họ Hoàng cùng với các ngài thỉ tổ các họ trong làng đã đưa dân đến nơi đây khai phá đất đai, trồng tre, dựng làng cho nên đã lấy tên làng là Trúc Lâm (có nghĩa là rừng tre). Trong làng, hồi đó ta thấy còn rất nhiều tre và lồ ô. Làng Trúc Lâm thuở ban đầu có 4 xóm (ấp): Đông, Nam, Trung và xóm Tây, sau này có lập thêm xóm Rú và xóm Đồng. Hiện nay, với chủ trương dãn dân của Nhà nước, một số hộ đã được đưa lên định cư ở chân rú Bắp địa phận làng Trúc Lâm.
Vị trí làng: Làng Trúc Lâm nằm ở phía Tây kinh thành Phú Xuân Huế, khoảng cách đường chim bay chừng 3 km, đi theo con đường bộ thì dài chừng 5 km, nằm trong địa hạt xã Hương Long, trực thuộc thành phố Huế. Phía đông giáp với làng An Ninh Thượng, phía tây giáp với rú Bắp và làng Bồn Phổ xã Hương An. Phía nam giáp với sông Bạch Yến. Phía bắc giáp với Bàu (sông Cổ Bưu) xã Hương Chữ.
2. Nguồn gốc Họ Phan làng Trúc Lâm:
HỌ PHAN VĂN ở Thôn Trúc Lâm, Phường Hương Long, Huyện Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên, nay là Thôn Trúc Lâm, Phường Hương Long, Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo một số tư liệu tìm được và thông tin truyền khẩu thì đã có từ sau năm 1469. Từ khi khai canh lập làng không biết đã có bao nhiêu đời, bao nhiêu thành viên. Đến nay, Họ có 2 Phái, tổng cộng đã có trên dưới 20 đời. Tuy nhiên, số đời trong họ còn lớn hơn nhiều, không có tài liệu nào ghi chép và nếu có ghi chép thì các tài liệu đó đã có ít nhất một lần bị thất lạc cả hồ sơ gia phả hoặc do không rõ biến cố nên gần cả một trăm năm nay 2 Phái này không phân định được trên, dưới (anh, em). Số thành viên con cháu các đời trong họ có số lượng rất lớn, đứng thứ Nhì trong "Thập nhị tôn phái" (tức là đứng thứ nhì trong 12 họ, phái)
Họ Phan Văn hiện nay đang có 2 Phái: Phái ông Phan Văn Viên và Phái ông Phan Văn Trạch. Phái đang được biên phụng và bổ sung trong gia phả này là Ngài đang được thờ ở phía Đông trong Nhà thờ Họ tọa lạc tại Xóm Tây ở phía cuối làng. Đến khoảng chừng năm 1935, Nhà thờ họ được chuyển về phía đông cách nhà thờ cũ chừng 800 mét và cách mộ Ngài Khai Canh chừng 500 mét về phía Tây Tây Nam, là Phái Trên (Phái Đông) tức là Phái thứ Nhất. Việc phân định thứ bậc không có gì khó khăn vì có rất nhiều cơ sở để chứng minh, hoặc các thông tin được cung cấp thông qua các thành viên hiện tiền. Đến nay, đa số thành viên trong họ đã đồng tình và thừa nhận Phái ông Phan Văn Viên là phái thứ Nhất. Việc đáng tiếc này xảy ra đã từ rất lâu và do vì quyền lợi của một vài cá nhân trong một thế hệ trước đây đã làm xáo trộn trật tự nói trên, vô tình đưa Họ tộc lâm vào tình trạng khó xử. Vì vậy, để trả lại nguyên gốc sự hình thành và phát triển tự nhiên của Tổ tiên đúng với trình tự lịch sử, thứ bậc, trước sau…con cháu trong Họ tộc cần nghiêm minh tôn trọng thứ lớp của tổ tông và đồng hàng hiện tiền. Việc làm này cần phải được tiến hành sớm nhất nếu có thể, nhằm giải quyết sự thống nhất cao về mặt tuân thủ quy luật phát triển đương nhiên của tạo hóa. Mặt khác, cần quán triệt cho con cháu hiện tiền hiểu rõ gốc rễ sự việc này để mai sau không gây ảnh hưởng gì cho hậu thế.
Phái thứ nhất của họ Phan Văn ở Trúc Lâm là một trong hai Nhánh đã có từ lâu đời, theo thống kê sơ bộ có khoảng chừng 350 thành viên trực hệ, thuộc 12 đời. Có gia phả biên mục đầy đủ, trước đây viết bằng chữ Hán và được cập nhật liên tục. Bình quân chừng 10 năm tổ chức Tu phả ý một lần. Các lần cập nhật sau là vào các năm 1970; năm 1981; năm 1992 và năm 2001. Trước đây, theo lời kể của các thành viên lớn tuổi trong họ thì đã có một lần thất lạc hồ sơ gia phả vì một lý do nào đó không rõ, nên việc thống kê lại hệ thống tông đồ có thể có một vài khó khăn và trở ngại nhất định nên chỉ bắt nguồn từ cụ tổ Phan Văn Viên làm đời thứ Nhất, (Thông tin này chưa có cơ sở để xác minh vì đồng hàng có thể có nhiều hơn). Do đó, thân thế và sự nghiệp của ngài Thủy tổ và quá trình hình thành, phát triển các đời không được nắm rõ. Có thông tin chưa rõ, cho rằng: đến đời thứ sáu, do được Vua điều đi làm công tác Quản tượng nên có một thành viên tên là Phan Văn Võ đã rời quê đi xa, sau thời gian ấy, đã ở lại hẳn tại Làng Liễu Nam, xã Hương Vân, Huyện Hương Trà. Đến sau năm 1963 con cháu của cụ Phan Văn Võ (đời thứ Sáu) là ông Phan Văn Xoài (đời thứ Mười) sau một thời gian tìm hiểu đã trở về trình lại hồ sơ gia phả và bổn Phái đã so sánh bản gốc, thừa nhận là thành viên của Họ Phan Văn Trúc Lâm, nhưng chưa liệt kê vào tông đồ phả hệ (*). Trong gia phả của ông Phan Văn Xoài so với bản gốc của phái ta thì chỉ có trùng đời thứ Sáu có tên ông Phan Văn Võ (gia phả ông Xoài ghi: Hiển tằng tổ khảo Vinh Dương quận Phan Văn Võ (武) quý ông thứ nhất lang, tạ thế ngày 9 tháng 10, tức là con thứ nhất, độc tôn) nhưng gia phả gốc của Họ Phan Văn Trúc Lâm ghi là con thứ Ba, vì đồng hàng với ông Võ còn có hai anh tên là Phan Văn Thuyết và Phan Văn Khiêm. Hai ông: Thuyết và Khiêm trong gia phả ông Phan Văn Xoài lại không có. Gia phả gốc của ông Xoài ghi ông Phan Văn Võ sánh với Hiển Tằng tổ Y phu Phan Da chánh thất từ nương (Vỏ: Da? Nhầm với Võ? Có lẽ nói chệch đi tránh tên húy), không ghi sinh ra ai, nhưng lại có đời thứ Bảy, điều này chứng tỏ mấy đời sau mới cập nhật gia phả nên không rõ đồng hàng có hai anh Thuyết và Khiêm(!). Có thông tin cho rằng có thể chính cụ tổ Phan Văn Gia tức là Võ quân Đại lang (đời thứ Nhất ở Liễu Nam, có trích sao bản chữ Hán dưới đây) là người đã rời xa quê do Vua điều đi và đến đời thứ sáu cũng sinh ra một thành viên tên là Phan Văn Võ (đời thứ Nhất). Do vậy chúng tôi xin trích dẫn nguyên bản chữ Hán tập Gia phả gốc của ông Phan Văn Xoài (đời thứ 10 ở Liễu Nam) vào các trang sau để con cháu đời sau được biết. Tuy nhiên, ông tổ của Phái Phan Văn ở Thôn Liễu Nam có tên là Phan Văn Gia có lẽ có liên quan mật thiết với ông tổ hai phái Phan Văn ở thôn Trúc Lâm là Phan Văn Viên và Phan Văn Trạch (Gia: 家 -Viên: 园 -Trạch: 宅 , xin xem thêm từ điển). Phan Văn Gia là một Võ quân của Triều đình nên húy gọi là “Võ Quân Đại Lang” chứ không phải tên là Gia húy là Võ như trước đã nhầm lẫn, xin trích lại nguyên văn như sau: Hiển thượng Tổ khảo Vinh Dương quận Phan Văn Gia tức Võ Quân Đại Lang, 顯 上 祖 考 榮 陽 郡 潘 文 家, 即 武 莙 大 郎 (Gia chứ không phải Da). Xin giả sử và lưu ý thêm: Nếu trước đời thứ Nhất, các ngài đặt tên con theo đúng trình tự là Gia, Viên, Trạch thì Phan Văn Gia có thể là anh cả nên thuộc Phái thứ Nhất, Phan Văn Viên là con thứ hai (hoặc là con trai thứ Hai) nên thuộc Phái thứ Hai và Phan Văn Trạch là con thứ ba (hoặc là con trai thứ Ba) nên thuộc Phái thứ Ba. Vì thế, trong dịp phụng biên này, người viết vì không nhìn xa trông rộng được nên chỉ mạo muội đưa ra một vài lời bàn để tham khảo thêm, mong tổ tiên minh chứng và để đời sau nghiên cứu, sưu tầm thêm.
(*) Năm 1963 con cháu của cụ Tổ Phan Văn Gia (đời thứ Nhất) ở Làng Liễu Nam, xã Hương Vân, Huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên là ông Phan Văn Xoài (đời thứ Mười). Căn cứ vào lời dặn của Tổ tiên, ông đã về làng Trúc Lâm kể lại, Tổ tiên của ông Xoài đã dặn lại rằng: “Sau này, con cháu hãy về tìm lại họ hàng của mình ở làng Trúc Lâm. Nhà thờ họ Phan Văn của cụ Tổ chúng ta nằm ở vị trí cuối cùng làng Trúc Lâm, bên phải nhà thờ đi qua con Bàu là Rú Bắp”.
Thật vậy, nhà thờ của Họ Phan Văn Trúc Lâm nằm ở vị trí cuối làng, trên lô đất hiện nay của cụ Trần Viết Tuệ (hiện nay lô đất này do anh em đồng hàng và vợ chồng ông Trần Viết Miêu và bà Nguyễn Thị Hoà đang quản lý và sử dụng) cách giếng Bót chừng vài chục mét. Đến khoảng chừng thập niên 20, 30 của thế kỉ XX, được sự thống nhất của hai bên, Họ Phan Văn đã đổi lô đất của nhà thờ để lấy lô đất của cụ ông Trần Viết Tuệ (lô đất hiện là nhà thờ họ Phan Văn) để xây dựng nhà thờ họ.

GHI CHÚ THÊM VỀ VIỆC SƯU TẦM HỌ PHAN
(Do Phan Văn Thảo và Phan Văn Lưỡng thực hiện)
*Ngày 26/4/2006: Sưu tầm tại Họ Phan Mỹ Lợi:
1- Đời thứ Nhất: Phan Công Nhâm
2- Đời thứ Hai: Các con cháu của ông Phan Công Nhâm là:
Phan Viễn Ba Tơ (Q. Ngãi) - Phan Dũng (Phú Yên)- Phan Phúc (Quãng Nam)- Phan Chậm (Bến Tre)
3- Đời thứ Ba: Các con cháu của ông Phan Viễn Ba Tơ là:
Phan Tơ (Mỹ Lợi) - Phan Bút (Quãng Nam) - Phan Ngọc (Thanh Hóa)- Phan Vũ Cốc (Bến Tre) - Phan Mễ (Biệt phổ)
4- Đời thứ Tư : Các con cháu của ông Phan Tơ là:
Phan Dừng
5- Đời thứ Năm : Các con cháu của ông Phan Dừng là:
5.1 Không rõ; 5.2 Không rõ; 5.3 Không rõ; 5.4 Phan Song; 5.5 Không rõ ; 5.6 Phan Đàn ; 5.7 Phan Liêm.
Phan Đàn Phan Liêm
Họ Phan Mỹ Lợi; (Tước Định Liêm)
thuộc Họ Phan Phú Xuân (Kinh đô)

Phan Điền Viên (Vợ mang họ Hoàng) Phan Trạch (Vợ mang họ Nguyễn)
(Hiện nay, Họ Phan ở Trúc Lâm đang có hai phái (có thể nhiều hơn) đó là Phái ông Phan Văn Viên và Phái ông Phan Văn Trạch. Họ Phan Mỹ Lợi có hai ông Phan Điền Viên và Phan Trạch (!)
Ông Phan Liêm chuyển về Kinh đô lập thành họ Phan Phú Xuân truyền lại cho hai ông Phan Điền Viên và Phan Trạch (trùng tên với hai ông ở hai phái họ Phan Văn Trúc Lâm sau đó thì mất gốc nên trong gia phả Họ Phan Mỹ Lợi ghi không rõ)
(Phan Song và Phan Liêm cùng mẹ đích, Phan Đàn con vợ thứ. Phan Song sinh năm 1739, Phan Liêm sinh năm 1741). Ngài Liêm làm quan chưởng lý bộ Đinh (tìm ở trong phổ Nguyễn Phúc Dần)
Trong Gia phả Họ Phan ở Mỹ Lợi có đoạn ghi như sau:
Sinh cư đầu nguồn Mã, La, Cả, di dân ổn cứ tại đất Tùng Mai Bắc Hà. Một đại tử chuyển về phương Nam lập thành ấp sinh cư ổn định lâu dài lập thành Quận Nhật Nam, tiếp đến sống trong Chiêm quốc thì họ Phan ta đã đầu lĩnh thống trị toàn phương Nam.
Đến đời Lý thì bị Phó Ngụy là Ngụy Mật cướp quyền. Họ Phan ta luôn đoàn kết hưng binh để chiếm lại đất đai và ngôi vị đầu.
Nhưng ôi, cơ trời khó tỏ, mãi đến đời Trần có ngài Phan Công Thiên, văn võ kiêm toàn được phối hôn với Công chúa Thuận Hóa công nương là Trần Thị Lãng được phong đệ nhất quốc công kiêm chánh sứ thập tam châu đất Nam Trung, giết được dòng họ Ngụy Mật. Đến đời nhà Lê được phong là Thích Quốc Công. Đời Hồ và đời Nguyễn đều được phong là Đại thánh Quốc công, con cháu chắc chiu về sau vẫn hưởng phúc thừa.
**Ngày 30/4/2006, tại họ Phan Sơn Công Hương Trà:
Họ có khoảng 18 đời. Đây là các đời đầu:
1. Đình Dương 4/12 (Kỵ ngày 4 tháng 2)
2. Phúc Khánh 1/12 Phúc Đức 15/8
3. Văn Kính 1/12
4. Văn Chức 28/2-Văn Lắm 6/12- Văn Tuy 25/4- Văn Thuần 10/5
5. Văn Chữ (Tự)-Văn Chúc- Văn Duy- Văn Thống (Vợ là Hoàng Thị Như- Văn Thiệu (Vợ là Hoàng Thị Lý). Thống và Thiệu vào năm 1807 chừng 60-70 tuổi
6. 7. 8. 9. : Thất tường (Không rõ)
10. Văn Khương- Văn Nhơn-Văn Phúc- Văn Siêu- Thị Mau- Thị Lắm.
11. Văn Tứ 12/12- Văn Ngãi 28/3- Văn Đức
12. Văn Dương4/4-Văn Diểu 8/4-Thị Y- Văn Thỉ (Sỹ) 5/8-Thị Cách- Thị Khương- Văn Học- Văn Hay- Văn Tiền- Văn Lương.
13. ….
***Ngày 3/5/2006 tại Họ Phan Đình ở làng Trúc Lâm:
Chỉ có 13 đời sau từ ông Phan Đình Huyền. (Họ Phan Đình hiện toạ lạc phía Tây Bắc của chùa Trúc Lâm, Hương Long, Huế)
(Lưu ý: Theo tài liệu của Phan Tộc Tỉnh TTH, họ Phan Văn Trúc Lâm có liên quan đến các họ nêu trên nên các thông tin trên chỉ để tham khảo thêm)
Hiện nay, khi đang cập nhật bổ sung các thông tin này, Phái thứ Nhất đã có 12 đời, nhưng trong gia phả này chỉ đang thống kê và cập nhật cho đến cuối đời thứ 11 và đầu đời thứ 12.
Gia Phả PHAN VĂN LÀNG TRÚC LÂM - HUẾ
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc PHAN VĂN LÀNG TRÚC LÂM - HUẾ.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc PHAN VĂN LÀNG TRÚC LÂM - HUẾ
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.