GIA

PHẢ

TỘC

TRẦN
LỆNH
TỘC
Trần
Hưng
II
Phái
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
TỘC ƯỚC - GIA PHÁP
ĐIỀU ƯỚC CỦA HỌ TRẦN.


Bổn tộc hội tề, nghĩ định điều ước của họ để đời như sau: Họ mà có điều ước cũng như nước mà có điển lệ, đời này đến đời khác, có những điều mà không thể hiện đi được; thiết nghĩ: Họ mình là họ danh gia, đội ơn của nước cùng nhiều ơn của nhà, quần chúng khắng khít. Bây giờ muốn giữ nề nếp được muôn đời có tiếng khen thì phải có điều ước để cùng nhau gìn giữ đúng đắn, trước kia họ đã có nghĩ định rồi, đáng lẽ phải để y như vậy, nhưng ở điều ước cũ có nhiều thiếu sót và khi làm việc phải kê cứu hơi phiền phức nên mới hội đủ viên sắc trong họ tái hành nghĩ thêm lập thành quy trình tóm tắt lại cho rõ ràng và bỏ những điều phiền phức nương theo này mà không trái lẽ lối xưa, để làm lời khuyên răn của một họ, con cháu ta phải đời đời giữ lấy xem đấy làm gương, thì trên đối với tổ tiên đã quá vãng, dưới đối với họ hàng hiện tại rất là đẹp, để khuyên con cháu giữ lấy chớ quên.
1. Phần mộ của tổ tiên chôn tại xứ nào, tọa hướng, nên biên rõ một bản, và các mộ lớn nhỏ trong họ cũng phải phụ ghi rõ ràng để phòng lạc sót.
2. Nghĩ định 12 năm tu lại thế hệ toàn đồ một lần lấy năm Bính Dần làm đầu.
3. Năm Thìn và năm Tuất trung tuần tháng bảy năm ấy chọn ngày tốt làm lễ hạp tế và tu phổ một lần; năm Thìn đốt áo và giấy ngũ sắc, năm Tuất đốt áo và dán thêm áo quần thế giấy kỳ trước.
4. Mỗi năm ngày mồng tháng chạp, bản tộc hội đồng tảo mộ, những người đi làm việc công và người đau ốm được phép cho người đi thế, người nào gặp tang chưa chôn được miễn, ngoài ra không được vắng mặt, nếu trái thì họ chiếu lệ trách phạt; đàn anh thì phạt tiền 5 quan, trầu rượu 1 mâm; đàn em thì phạt tiền 3 quan, đánh đòn 50 roi trở xuống.
5. Tế phẩm hàng năm, vật giá họ đã lượng nghĩ đúng đắn, các ban nên hết lòng lo lắng, không được thác cớ vật giá cao mà biện lễ suất lượt, nếu họ biết rõ thì họ chiếu theo điều lệ tảo mộ mà trách phạt để tế phẩm được long trọng.
6. Hội tu một bản tự điển, hàng năm các lễ cúng tế mỗi lễ số tiền bao nhiêu, mua lễ phẩm những gì, kê khoản biên rõ để cho đương ban chiếu theo đó mà làm, khỏi sự lầm lẫn.
7. Các hạng đồ thờ: Hương án, ngũ sự và ghế đẵng bằng gỗ, giao từ thừa phụng thứ ngoại, còn bao nhiêu đồ thờ khác, thường năm các ban thay đổi mà giữ đến lễ trần thiết, nhưng trong khi bàn giao nếu có cái nào sứt bể không thể trần thiết được thì ban mới phải trích ra trách cứ ban cũ bồi thường, nếu kiểm soát không chu đáo thì đương ban chịu trách nhiệm cho đủ đồ trần thiết để khỏi thiếu đồ tự khí.
8. Mỗi năm đến ngày tảo mộ, trừ người đương ban, lo làm lễ cúng, còn 3 ban từ 15 tuổi trở lên, trước một ngày đương ban phải loan báo cho con cháu lo dụng cụ, đến sáng đi tảo mộ cho được chỉnh đốn.
9. Hội tu một bản điền thổ hương hỏa, gồm có bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại xứ sở nào, đông tây tứ chí và văn khế mới cũ mấy tờ, nguyên mua số bạc bao nhiêu, thảy đều ghi chép rõ ràng để tiện phụng thủ và lưu chiếu.
10. Điền thổ của Họ trí làm hương hỏa, con cháu phải nên công tâm mà giữ gìn đời đời để lo việc cúng tế, không ai được bày chuyện mưu cầu lợi riêng, bán lại cho người khác, nếu trái trách về tội bất hiếu, trích bỏ ra ngoài họ.
11. Các tiến lễ đồng niên trích lại 1 mẫu 7 sào ruộng tại xứ Trầm Vọt, cho làm đong nếp mỗi một năm 30 ang trở lên để họ cúng tế đồng niên.
12. Các ngài Tộc trưởng, ông Phan lộc công, ông Quản cơ công, ông Hiệu úy công, ông Phó vệ công, từ năm vua Gia Long khôi phục về sau các ngài đã đại tu phổ hệ, lập ra điều ước, định kiến từ đường, mua thêm ruộng đất, họ càng ngày càng thêm đầy đủ, cho đến ngày nay con cháu đều được hưởng ân huệ ấy, thiệt là nhờ công tài bồi, đào tạo của các ngài, bấy giờ nhớ đến công trước, ước định mỗi năm kính biện lễ kỵ 4 lễ, phẩm tiền 10 quan, mỗi lễ 29 quan 5 tiền để đền đáp công ơn của các ngài, định làm thường lệ.
13. Định lệ viên nhơn trong họ, mỗi người góp phần khẩu phân 1 sào cộng điền 5 mẫu, tứ làm hương hỏa thường niên cày cấy để lo cúng tế.
14. Hàng năm cứ đến năm Mão và năm Dậu trích lấy 5 mẫu ruộng hương hỏa và bản tộc hợp canh trử lại nhà họ đề phòng đến năm Thìn và năm Tuất lo lễ hợp tế, ngày rằm tháng 8 năm Mão, năm Dậu họ làm lễ Thu hưởng xong phân phát cho người phụ về việc vãi giống và cày cấy.
15. Lựa người trong họ có khả kham công việc, chia ra làm 4 ban, hàng năm thay đổi lo việc, định làm lệ thường.
16. Viên tư thơ của họ soạn biên một bản danh sách của họ, trong họ nếu ai sinh hạ con trai - gái, đến giáp năm phải trình họ, đem bản ấy đối cứu đặt tên cho khỏi sự trùng phạm, cứ mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng chạp làm lệ.
17. Định lệ trong họ từ năm Thìn nhân số đã có thêm bớt, đến 8 năm là kỳ tu sổ nhân số phải nhóm cả 4 ban phân bổ lại cho cân nhân số ở trong ban.
18. Con trong họ đến 18 tuổi, phụ huynh và tên ấy đồng đến nhà họ với một mâm trầu rượu trình họ, đương ban biên tên vào sổ, rồi chiếu ban phần để cho nó biết, số lệ cứ đến mồng 8 tháng chạp định lệ.
19. Mỗi năm số tiền cho thuê ruộng hương hỏa đã có định giá, nếu như ai xeo tình nguyện thêm giá, lãnh canh bao nhiêu mẫu sào, bất câu người trong họ hay ngoài họ hễ có lệnh họ cho rồi không kể, còn bao nhiêu giao cho đương ban án xứ y giá cho người trong họ thuê, như mà muốn mưu lợi tự tiện đem cho người ngoài lấy lời, phát giác ra được thì lập tức họ thu hồi số ruộng cho thuê ấy rồi họ chiếu theo lệ tảo mộ mà trách phạt.
20. Con trong họ hể ai có thi đậu khoa trường: văn tự Tú tài, võ tự Võ cử trở lên đều thưởng tiền 15 quan, hoặc văn do Lại điền, võ do Giản mộ xuất thân mà có được phẩm hàm cũng đều được thưởng tiền 5 quan để tỏ lòng khuyến khích.
21. Những người trong họ mà có hưởng thọ được 60 tuổi thì miễn làm việc họ, được 70 tuổi thì gia thêm 01 bộ áo quần trỉ tiền 10 quan, rượu cơm 1 mâm trỉ tiền 3 quan, có công cán, có quan tước thì gia thêm 1 câu đối thọ để trọng người lớn tuổi.
22. Người chức sắc trong họ như có bổ đi ra ngoài, họ có lễ đưa một lần, lệ ấy đời đời; hạng nhất và hạng nhì chi tiền 3 quan, hạng ba và hạng tư chi tiền 2 quan đều có một mâm trầu rượu trỉ tiền là 5 tiền.
23. Lệ định quan viên văn võ trong họ từ Ngũ phẩm trở lên đều phải cúng tiền có bậc, phụ vào hương hỏa để cho của họ được dồi dào: chính tam phẩm trở lên cúng tiền 100 quan, tùng tam phẩm cúng tiền 60 quan, chính tứ phẩm cúng tiền 40 quan, tùng tứ phẩm cúng tiền 30 quan, chính ngũ phẩm cúng tiền 20 quan, tùng ngũ phẩm cúng tiền 10 quan.
24. Lệ định tiền của họ hàng năm cho vay định lấy rằm tháng tư là kỳ thâu nạp tiền lúa thì đương ban phải xuất phiếu trước tiến báo với 3 ban, phải xuất người trong họ chiếu phiếu mà đòi y kỳ đem nạp, rồi đương ban hợp với 3 ban hội đồng thâu định liên kết mà thành.
25. Tên húy của các ngài diễn tôn, hể từ Phiếu, Đối, Liễn từ nay về sau cấm không được dùng và tên húy ông trưởng cùng đồng hàng trở lên, khi đọc phải tránh cử để tỏ sự hiếu kính.
26. Ước định các tôn phái làm nhà thờ mới thì họ phụ tiền 1 lễ heo xôi đại lễ ( thế xuất cao viễn) chuẩn tiền 15 quan; trùng tu lễ ( cận thế thừa trưởng) chuẩn tiền 12 quan, thường lễ ( cận thế chi phái) chuẩn tiền 10 quan, hoặc là sửa sang nhà thờ rồi làm chay thì lễ hành hương chuẩn tiền là 5 quan, hoặc làm nhà thờ để thờ tổ tiên ( cận thế chi phái- thập thế hữu biệt) chuẩn tiền 5 quan; như có sửa sang và làm chay thì chuẩn tiền 3 quan để tỏ hậu ý.
27. Người trong họ ai có ruộng đất tư muốn bán thì phải trình họ, họ cũng chuẩn y theo thời giá, nếu ngày sau có tiền xin chuộc lại thì họ cũng cho chứ không được bán cho người ngoài để phòng lạc mất, định lấy năm Bính Dần làm đầu.
28. Định lễ đi điếu ông Trưởng họ quá cố: lễ heo xôi trỉ tiền 10 quan, như có công cán thì chước lượng biện thêm, còn viên nhơn trong họ có quá cố thì tiền đi điếu đều có cấp bậc để tỏ tình thương xót, nhưng ở trong người nào có công với họ cũng chiếu theo nặng nhẹ mà thù lao ( không ở trong điều lệ này, hạng nhất thì tiền 5 quan một mâm trầu rượu trỉ tiền 1 quan, hạng 2 tiền 4 quan, như có chuyên ủy việc họ thì biện thêm 1 mâm trầu rượu trỉ tiền 5 tiền, hạng 3 tiền 3 quan như có chuyên ủy việc họ thì biện thêm 1 mâm trầu rượu trị giá 5 tiền, còn hạng 4 thì 2 quan mà thôi.
29. Định lệ đi điếu dâu trong họ thì chiếu theo phần nữa hạng trai ở điều 28 nói trên mà cấp điếu, còn vợ hầu, hể ai có chuyên ủy việc họ mà có con trai cũng được chiếu theo hàng dâu giảm bớt chút ít mà cấp tuất, mỗi hạng giảm bớt 5 tiền, ngoài ra không ở trong lệ này.
30. Định lệ đi điếu con gái trong họ, hể ai có chuyên ủy việc họ cũng được chiếu theo hàng dâu giảm bớt chút ít mà cấp tuất, mỗi hạng bớt đi 5 tiền, nếu người nào có lòng chiếu phụng đặt biệt thì chiếu theo vật cùng khinh trọng mà biệt đãi để tỏ hậu ý.
31. Họ ta xưa nay vốn xưng là một họ có nề nếp, thì người làm cha, làm anh phải biết lễ nghĩa, làm con làm cháu thì phải giữ gìn thảo thuận, ai nấy đều giữ cái khuôn phép của gia tộc để tròn tiếng khen, nếu người nào bất hiếu bất mục với làm nhiều việc bất nghĩa (như là đánh bạc, hút thuốc phiện) nếu họ biết rõ manh mối; nếu tội nhẹ thì đàn anh phạt tiền 10 quan 1 mâm trầu rượu, đàn em phạt tiền 5 quan đánh đòn 50 roi trở xuống; tội nặng thì tước khử danh tịch để răn con bất hiếu.
32. Con gái trong họ lấy chồng phải đợi khi có lệnh cha mẹ mới được, bằng không mà cẩu hiệp với nhau thì cứ ông gia trưởng trách phạt ( heo 1 con trỉ tiền 15 quan, 1 mâm trầu rượu trỉ tiền 1 quan) đứa con gái ấy lập tức đem ra ngoài chợ đánh đòn 30 roi, bỏ ra ngoài họ, còn tên gian phu ấy thì có luật quan nghị sự. Nhưng tựu trung như đã có hứa gã nhưng chưa có lễ cưới đã tư thông trước với nhau thì cũng chiếu theo lệ này mà trừng phạt để nghiêm chỉnh môn văn.
33. Nghĩ định người làm dâu trong họ phải nên chăm lo việc nhà, lo việc cúng kỵ, lấy thuận làm quý, ví bằng đem lòng hung hãn, quen đánh ghen hờn mà người chồng không trị nổi, thì dâu trưởng mang xét đúng sự thật trình lại bản tộc chiếu tội trừng trị để nghiêm chỉnh đạo làm vợ.
34. Nghĩ định hàng năm các ban ấy án kỳ chiếu tiền lễ cúng, rồi lại phải đặt thêm một người từ thừa và nhà thờ nhang đầu thắp đồng niên nhận lãnh tại đương ban, còn nguyệt bổng mỗi tháng cấp lúa 2 ang, tiền 5 tiền, lệ thường như vậy.
35. Nghĩ định người trong họ mà không có con, người nào tình nguyện thuận đem điền sản của mình cúng họ, để nhờ họ sau khi quá cố, thì họ hội đồng bàn định cho thừa phụ của họ để tỏ lòng thương kẻ quỳnh độc.
36. Nghĩ định người trong họ ai đã nhận thuê điền thổ của họ, hạn nạp tiền chia làm 4 kỳ: rằm tháng giêng một kỳ, rằm tháng tư một kỳ là nạp tiền đất thổ, rằm tháng bảy một kỳ, rằm tháng mười một kỳ là nạp tiền điền, mỗi kỳ đều nạp một phân nữa số tiền đã thuê giao đương ban họp tại nhà thờ nhận đủ, nếu ai mà trái lệ này thì điền thổ bị thu hồi, về sau không được thuê nữa, định làm lệ thường.
37. Nghĩ định các tôn phái người nào chưa dự vào hàng phân hiến, thì được cử 1 người biên vào chúc văn để tỏ ý tôn trọng.
38. Những điều ước kể trên bản tộc đã từng đôi ba lần trù nghĩ, thảy đều noi theo lề lối cũ của tổ tiên, từ nay về sau con cháu cần phải giữ gìn phép tắc của tiền thế, không được theo ý riêng của mình mà bàn cải, nếu người nào làm trái các điều khoản kể trên đều luận vào tội bất hiếu.
---  ---



Ngày 11 tháng 3 năm Tự Đức thứ 30.

Tự trưởng: Thừa Ấm thượng thọ Hưng Quang phụng duyệt.
Nguyên Hiệp Quản Hưng Nghị phụng kiểm.
Thí sinh Hưng Duẫn phụng thơ.


---  ---


Ngày mồng 4 tháng 4 năm Mậu Tuất 19/5/1958.

Thập nhị thế tôn Hưng Kỵ phụng dịch.
Thập tam thế tôn Hưng Đồng phụng tả.


---  ---

Đây là bảng viết bằng sơn trên bảng gỗ bằng 2 kiểu chữ song ngữ Hán- Việt treo tại nhà thờ Họ.
Gia Phả TRẦN LỆNH TỘC Trần Hưng II Phái
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc TRẦN LỆNH TỘC Trần Hưng II Phái .
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc TRẦN LỆNH TỘC Trần Hưng II Phái
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.