GIA

PHẢ

TỘC

Họ
Hoàng
Thọ
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
PHẦN THỨ NHẤT I. Một vài suy nghĩ Sách xưa có câu: Mộc hữu bản thủy hữu nguyên, nhân hữu tổ nghĩa là: cây có gốc, nước có nguồn, người có tổ tông. Đạo lý văn hóa Việt Nam rất coi trọng vấn đề gia đình, gia tộc. Chính vì vậy nên mới nói là: "Tiên trị gia, hậu trị quốc" Mỗi dòng họ đều phải ghi chép lập nên tộc phả, gia phả để truyền lại cho con cháu mai sau với mong muốn "Giấy rách phải giữ lấy lề, đời sau noi gương đời trước, góp phần rạng rỡ tổ tông". Thường căn cứ vào tộc phả để viết gia phả, tức là lấy cái xa làm cái gốc để phát triển và viết cái gần. Ngược lại cách viết thứ 2 là nhiều họ chưa viết tộc phả hoặc đã có những thất lạc sơ sài thì viết gia phả trước rồi nhiều chi họ tập hợp lại, lần ngược lên để rồi viết thành tộc phả, tức là lấy những cái biết được ở gần để rồi viết cái xa. Một chu trình viết cần lưu ý: 1. Theo "Thọ mai gia lễ" thì cuốn gia phả cần ghi chép đầy đủ, rõ ràng, càng chi tiết càng tốt để con cháu biết được noi theo. Cuốn gia phả ghi tới 7 đời (thất tộc) nhà nào có phúc, nhiều đời con cùng chung sống thì viết tới 9 đời (cửu tộc). Bảy đời là: Cụ ngũ đại (kỵ hay cao tằng tổ) Cụ tứ đại (Cụ hay tằng tổ) Cụ tam đại (Ông bà hay tổ khảo) Cụ nhị đại (Bố mẹ đã chết là khảo) Bản thân là chủ lễ, chủ giỗ gọi là sở sinh Con (tử) Tõn (cháu) Chín đời thì thêm: Tằng tôn (chắt) Huyền tôn (chút) Khi cúng giỗ thì cúng tới các cụ ngũ đại. Thường khấn là "ngũ đại mai thần chủ" giữ vị trí tổ đại tôn. Khi người đang là chủ gia tộc chết, thì sẽ chuyển thành "khảo" cụ đang ở vị trí ngũ đại sẽ được chuyển lên vào hàng ngũ các cụ cận tổ. Thần chủ của cụ ngũ đại đang thờ được mang đi đốt hoặc chôn mà thay vào đó là thần chủ của cụ Tứ đại lên thay. Họ nào cũng vậy, đến nay khi chưa biết được nguồn gốc của họ mình bắt nguồn từ đâu, tên là gì mà thường tôn cụ gần nhất, biết rõ nhất là cụ "Thượng tổ". Cụ thượng tổ ở vị trí các cụ "cận tổ" nên khi cúng thường khấn: Mời cụ ngũ đại mai thần chủ và các cụ "cân tổ về lai lâm chứng giám" cùng với giỗ của người được giỗ chính thức hôm đó. Khi giỗ các cụ bà thì khấn là "Tỷ" ví dụ khấn cụ bà tam đại thì khấn là "hiền tổ tỷ". 2. Người chết khi còn sống giữ một chức vị gì trong xã hội, làng xã, khu phố, dù to, nhỏ đều có chữ "Quí công". 3. Trong gia phả không đề cập tới viết về vị trí phụ nữ với quan niệm xuất giá tòng phu - Họ nhà chồng sẽ viết. II. Họ hàng 1. Nước Việt Nam theo truyền thuyết từ thời Sùng Lãm tức Hồng Bàng là con lộc tục (Kinh Dương Vương) lấy bà Âu Cơ (2879 trước công nguyên) đã sinh 100 người con đi khắp nơi trở thành Bách Việt - Nay là 60 dân tộc - mỗi dân tộc đều có nhiều họ. Về địa lý: Việt Nam ở Đông nam Châu á. Xa xưa phía Bắc có nhiều người ở Phúc Kiến di cư xuống, phía Nam người Anh dơ nê diêng di cư lên nên các dòng họ đều rất phong phú như: Hoàng; Phan; Phạm; Đỗ; Nguyễn; Trần; Võ;... 2. Riêng Họ Hoàng ở 15 bộ thuộc Nước Văn Lang trước đây từ Tây Vu (Vĩnh Phú), Châu Diên (Sơn Tây), Tân Hưng (Tuyên Quang), Vũ Định (Thái Nguyên) đến Cửu Chân (Thanh Hóa), Việt Thường (Quảng Bình),... sau này từ năm 1600 về sau, họ Nguyễn phát triển vào nam thì đâu cũng có dấu tích Họ Hoàng nhưng phát âm khác nhau như: Hoàng; Huỳnh; Hường; Voòng; Vàng;... Riêng chữ viết đều có dấu tích họ Hoàng. Tiếng Môn, Khơ me ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Quảng Trị. Tiếng Thái: Việt Bắc; Nghệ An; Thanh Hóa. Tiếng Indonésien: Gia rai; Ê Đê. Tiếng Tạng - Miến: Người Lôlô (Hà Giang, Phú Thọ); Hà Nhì; La Khụ;... (Tây Bắc). Tiếng Hán: Người Hoa ở Quảng Ninh; Sán Dìu (Hà Bắc). Tiếng H'Mông: Người Dao ở Hòa Bình; Tây Bắc. 3. Không kể trong dân gian ngay kể các thời vua chúa Họ Hoàng cũng được sử sách ghi lại. Ví dụ năm 1541 khi Lý Anh Tông còn nhỏ, Lê Thị (Lê Thái Hậu) giữ quyền nhiếp chính, tư thông với Đỗ Anh Vũ lộng hành đã bị bộ ba công thần Tô Hiến Thành; Hoàng Nghĩa Hiển; Lý Công Tín diệt trừ. Dưới các triều vua, quanh Thăng Long có nhiều các quan thuộc nhiều họ tập trung ở nhiều địa điểm, đã thành câu ca: Nhất Mỗ; nhì La; thứ ba Canh Cót. Họ Hoàng cũng có mặt rất đông ở những nơi này. Ví dụ ở Canh Cót nay là Yên Hòa, trước có tên là Hạ Yên Quyết có cầu Tây Dương (Cầu Giấy) có rất nhiều người họ Hoàng nhưng tên đệm lại khác nhau. Tại đây còn di tích: Cụ Hoàng Quân Chi 1490 thời Trần, đỗ thái học sinh, làm "Binh bộ". Con lại lấy tên đệm là Hoàng Công Tỉnh (1431) phù vua Lê Lợi. Dòng Họ Hoàng đổi tên đệm: Năm 1526 có cụ Hoàng Việt Ái sau có con là Hoàng Bồi đều đỗ Tiến sỹ. Tới năm 1565 nhiều người lại đổi tên đệm thành: Hoàng Xuân Sửu; Hoàng Hữu Sáng; Hoàng Thọ Sước;... Việc đổi tên đệm ngoài nguyên nhân lịch sử có thể còn do qui định của nội tộc. Ví dụ Họ Trần ở Tức Mặc (Tức Mặc trước phải là làng Tráng Kiện), hiện nay có 400 hộ đã qua 800 năm cả làng chỉ có một Họ Trần (cả nước chỉ có 1 làng có 1 họ như vậy) với phương châm "Giữ làng, giữ họ" người ngụ cư, trai ở rể đều phải cải họ thành họ Trần. Họ Trần chia nhiều chi với tên đệm: Trần Xuân..., Trần Đăng..., Trần Huy..., Trần Thế..., nhưng cùng chung một gốc có các ông tổ: Trần Hạp, Trần Thừa, Trần Cảnh, Trần Thử Độ. 4. Họ Hoàng Tôi đã từng tiếp xúc hiện đang sinh hoạt ở Hà Nội (còn 1 số chưa gặp).có rất nhiều (trên 120) dù rằng chữ đệm có khác nhau. Nhiều họ đã có viết gia phả, tôi sẽ tiếp tục liên hệ và đối chiếu mở rộng. PHẦN THỨ HAI I. HỌ HOÀNG THỌ: Do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân lịch sử tên đệm của Họ Hoàng có nhiều thay đổi. Đối với Họ Hoàng Thọ - nguyên nhân sau đây có thể tham khảo để xác định theo làm tài liệu lưu lại. Đời vua Trần Nhân Tông (1388-1408) Hồ Quý Ly âm mưu cướp ngôi, dời kinh đô vào Thanh Hóa. Ai không thuộc phe cánh Họ Hồ đều bị triệt hạ; ngay đến đại công thần Trần Khát Chân có công giết được vua Chiêm Thành khi đánh Thăng Long cũng bị chu di tam tộc. Cụ Hoàng Hối Khanh đang trấn thủ ở Lạng Sơn phòng quân nhà Minh vì không tán thành chủ trương của Hồ Quý Lý nên cũng bị gọi về Thăng Long. Sợ bị họa, cụ đã cho họ hàng phân tán đi các nơi và đổi tên đệm. Đa số đi về Sơn Nam như Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, một bộ phận lên phía bắc như Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang. Bộ phận ở Hưng Yên đổi là Hoàng Hữu...; tại thôn Vân Nội tổng Yên Lạc, phủ Khoái Châu có Cụ Hoàng Thế Chân, một số sau đổi là Hoàng Thiện...; Hoàng Nghĩa...; ... Bộ phận đi theo ven sông Hồng về Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và vào Ninh Bình, Thanh Hóa đổi là Hoàng Thọ...; Hoàng Kim... Nay ở Xuân Bảng, Xuân Trường Nam Định có xã toàn là Họ Hoàng Thọ. Bộ phận đi về Vũ Thư Thái Bình đổi là Hoàng Công. II. HỌ HOÀNG THỌ Ở HÀ NAM Dự đoán họ Hoàng Thọ là thuộc tộc của cụ Hoàng Hối Khanh theo ven sông Hồng ở Hà Nam, với ý chí phù Trần và không chịu xa Thăng Long. Họ Hồ Thoán ngôi mới lập nên nước Đại Ngu chỉ tồn tại được 7 năm. Đời hậu Trần được dựng lại tuy chỉ 6 năm. Trong hàng ngũ theo nhà Trần chống quân Minh xuất hiện 1 số tướng tá họ Hoàng có tên đệm là Thọ. Huyện Lý Nhân là căn cứ chống quân Minh, vì là vùng trũng lại nằm giữa sông Hồng và sông Châu, nay còn đền thờ Trần Thương. Năm 1408 cụ Hoàng Thọ Châm phò Giản Định Đế Trần Quý từ khi ở Yên Mô. Dưới trướng của tướng Trần Nguyệt Hồ cụ Châm góp công lớn trong việc đánh Mộc Thanh, giết được Lữ Nghi ở Ý Yên, Nam Hà, được phong Vương trung hầu. Cụ Hoàng Thọ Ánh theo tướng Nguyễn Biểu phù Trần Quang Đế là Trần Quý Khoáng từ (1409-1413) được phong Giáo Quận công. Theo dòng thời gian đến thời Lê Trung Hưng (hậu Lê) đời Lê Y Tông do chúa Trịnh Giang lộng quyền nên nhân dân nổi dậy. Tại vùng Sơn Nam (Hà Nam - Nam Định), Hoàng Công Chất ở Vũ Thư, Thái Bình (1739) khởi nghĩa. Nông dân vùng Lý Nhân theo rất nhiều trong đó có Họ Hoàng Thọ. Cuộc chiến đấu kéo dài sau rút vào Thanh Hóa (1748) rồi lên Hướng Hóa (Tây Bắc). Tại đây đã phối hợp với các tù trưởng: Ngãi Khanh giải phóng Mường Thanh, Điện Biên (tháng 5 năm 1754). Năm 1957 khi lên công tác tại Tây Chang tôi được chính trị viên đại đội phụ trách đồn là Hoàng Thọ Giang. Họ này lập nghiệp ở vùng này rất lâu đời. III. HỌ HOÀNG THỌ Ở THÔN NGA THƯƠNG, XÃ NGUYÊN LÝ, LÝ NHÂN, HÀ NAM. Là người xa quê hương đi làm ăn nơi khác, nỗi niềm ấp ủ trông lòng đã từ lâu về cuốn gia phả Họ Hoàng Thọ ... ở Nga Thượng, cụ Hoàng Thọ Y nhiều năm sưu tầm đã sơ thảo viết lên cuốn gia phả vào năm 1934. Cùng chấp bút , phần chữ Hán là cụ nhiếu Đễ sau này viết ra chữ Quốc Ngữ là Hoàng Thị Nghĩa và Hoàng Thọ Mùi (tức Đễ). Sau năm 1954 cụ Hoàng Thọ Huyến gặp cụ Hoàng Thọ Hạnh ở Tuyên Quang, cụ Hoàng Thọ Hồ, Hoàng Thọ Thảo, Hoàng Thị Viết ở Nga Thượng đã thu thập được thêm nhiều tài liệu quý báu. Ngoài những chuyện kể của các cụ trên còn được nghe trực tiếp hồi nhỏ của các cụ Hoàng Thọ Luận (cắt tóc ở Tuyên Quang), cụ Hoàng Thọ Hưng (thợ mộc ở Tuyên Quang) và các cụ Hoàng Thọ Y. Sau khi viết lại được cụ Hoàng Thọ Căn bổ xung nhiều chi tiết. Đến nay tiếp tục sơ thảo lại để nghiên cứu, bổ xung, từng bước sau này có cuốn gia phả Họ Hoàng Thọ ở Nga Thượng được đầy đủ. Đặc biệt trong cuốn gia phả này hiện vẫn chưa có tài liệu về cụ ngũ đại Hoàng Thọ Sử, ngành 4; cụ Ngũ đại Hoàng Thọ Thoán ngành 5.
Gia Phả Họ Hoàng Thọ
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Họ Hoàng Thọ.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Họ Hoàng Thọ
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.