GIA

PHẢ

TỘC

TRƯƠNG
CÔNG



Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
Tộc Trương Công có nguồn gốc từ Miền Bắc vào cách đây hơn 500 năm. Hiện nay ở Quảng Nam có hai nơi Trương Công con cháu nhiều nhất là Đại Hồng, Đại Lãnh - Đại Lộc và Thanh Quýt - Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Gia phả gốc của họ Trương Công bằng chữ hán, ghi đến đời thứ 15 do cụ Trương Hữu Chiêu (Thập nhị thế) phụng lục thời Tự Đức năm thứ hai bốn (Tân Mùi - 1871). Hiện cuốn gia phả này đang lưu giữ bởi cụ Trương Công Kiết (thôn Tịnh Đông Tây - Đại Lãnh - Đại Lộc - Quảng Nam).

Đến năm Giáp Dần (1986) cụ Trương Tâm Can (Thập ngũ thế) phụng sao dịch nguyên văn ra quốc ngữ. Người đưa Phả hệ của Gia tộc lên webside http://www.vietnamgiapha.com/ là con cháu đời thứ 16 của Trương Công. Bản thân mong muốn cập nhật phả hệ Trương Công tộc đến hiện tại (các đời chon cháu thứ 16, 17, 18) nhưng chưa đủ thông tin, sau này sẽ hoàn thiện dần khi các Chi phái có thông tin đầy đủ con cháu.

* Lời nhắn: Hiện tại gia phả Trương Công tộc này chưa hoàn thiện. Với mong muốn thể hiện đủ các đời từ Thủy tổ nên người lập đang đưa trước lên đây Phái 3 của Trương Công tại Đại Lãnh, và sẽ tiếp tục nhập liệu dần các Phái 1, 2 và 4 theo đúng bản phả hệ của Trương Công tộc sao dịch năm 1986. Kính mong các bậc ông, cha chú, anh em Trương Tộc hỗ trợ, bổ túc thông tin để đưa vào phả hệ đầy đủ hoàn thiện. Thông tin xin viết gửi dạng văn bản word có dấu vào địa chỉ Email: congto2005@gmail.com.
Thông tin chính của một người gồm:
1. Tên họ đầy đủ và tên thường gọi (nếu có);
2. Ngày sanh;
3. Ngày mất (nếu đã mất, ghi rõ nơi chôn cất);
4. Nghề nghiệp và Nơi sanh sống hiện tại;
5. Nếu là con gái có chồng thì ghi rõ tên chồng và các con (cháu ngoại tộc Trương);

@ Khuyến nghị thông tin càng chi tiết càng tốt cho con cháu đời sau!
(Muốn tìm tên một người trong tộc thì vào phả hệ đồ, bấm tổ hợp phím Ctrl + F sẽ xuất hiện hộp thoại tìm kiếm phía trên bên phải. Nhập tên cần tìm rồi nhấn Enter. Chú ý phải sử dụng bảng mã Unicode và viết hoa tên người cần tìm).



TRƯƠNG TỘC SỬ THI

Nước có nguồn, cây kia có cội.
Người có nơi đất tổ quê cha.
Nhìn vô sử tộc TRƯƠNG ta.
Ngài TRƯƠNG THỦ CHIẾM sinh ra chúng mình.

Với bộ óc thông minh sáng tạo.
Một con người hoài bảo cao xa.
Quê hương từ đất Thanh Ba.
Vốn nơi văn vật, vốn nhà nho phong.
Nghe truyền hịch di dân Nam tiến.
Lê Thánh Tôn năm thứ ba ba (33).
Mở mang xã tắc sơn hà.
Vâng theo trăm họ, gần xa lên đường.
Cùng kết bạn QUÁCH, TRƯƠNG, VƯƠNG, VÕ.
Vượt đường xa thiên lý quan san.
Đi từ Thanh Tịnh trấn Man (Thanh Hóa, Nghệ An nay).
Băng qua sông Mã, đèo Ngang chập chùng.
Miệng xua đuổi thú rừng rình rập.
Chân bộ hành khẩn cấp ngày đêm.
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Phú Xuân, An Cựu, Bình Nguyên khô cằn.
Thiên nhiên cũng thử lòng hiệp khách.
Dãy Hoành Sơn đèo cách núi ngăn.
Người đi đâu chịu dừng chân.
Lần mò trên đỉnh Ải Vân sương mờ. (nay là Hải Vân)
Bên sóng biển vỗ bờ rào rạt.
Bên rừng cao vượn hú, chim ca.
Hòn Chàm một dãy Cù lao.
Trên sơn, dưới thuỷ, biết bao nhiêu tình.
Đây cố địa kinh thành Chiêm quốc.
Những sông dài, bờ đất uốn quanh.
Xa xa năm cụm Ngũ Hành.
Lờ mờ ngọn tháp Chiêm thành bỏ đi.

Quảng Nam đạo tên ghi đồ bản.
Phủ Điện Bàn giới hạn là đây.
Người lên thung lũng miền Tây.
Đất đai màu mỡ, cỏ cây mịt mùng.

Hà Sống Động dừng chân ngắm nghía.
Trỏ ngón tay về phía Tây giang.
Rằng xưa con đất người Chàm.
Chừ dân Đại Việt ta làm chủ nhân.
Sông uốn khúc, nguồn giăng hai ngã.
Đất hiền hòa cây cả bóng râm.
Gìn lòng ái quốc trung quân.
Di dân, lập ấp, khai rừng, khẩn hoang.
Lật giấy bút trưng THANH YÊN xứ.
Giáp Vu Gia, Bãi Sứ hạ Nà.
Cây Xoay, ruộng Mặt, cây Da.
Kiền Kiền, Cửa Trại, Bờ Sa, Thổ Hầm.
TRƯƠNG THỦ CHIẾM, chủ nông khai khẩn.
Việc hoàn thành sắp sẵn thời gian.
Giấy tờ gởi huyện trình quan.
Trở về đất Bắc, họ làng thưa qua.
Vì mồ mả ông cha ngoài đó.
Với vợ hiền vò võ đợi trông.
Tháng tròn ngày hạ đêm đông.
Đá mòn đôi gót chân không chưa mòn.

Ngày trở lại, xuân còn đôi lứa.
Vợ chồng vui sắm sửa lo toan.
Một hôm hành lý lên đàng.
Vai mang hài cốt phụ thân băng miền.
NGUYỄN THI SÁU vợ hiền theo gót.
Đôi gánh đầy chắt lót từ lâu.
Tiền lưng gạo túi tới đâu.
Ngày đi đêm nghỉ không câu phiền hà.
Người dường ấy, vợ nhà dường ấy.
Tát bể Đông vùng vẫy tương lai.
Cưu mang sự nghiệp lâu dài.
Đem tâm nhiệt huyết đem tài sĩ phu.

Thanh Yên xứ, hoang vu rậm rạp.
Dẫu gấu beo, voi, cọp rình người.
Dựng chòi chọn đất cắm dùi.
Đồi cao hình tựa con dơi cánh sè.
Mồ Tổ phụ đưa về an táng
TRƯƠNG THỦ LONG nguyên đấng nội ông
Và TRƯƠNG THỦ LÝ phụ thân
Tầm long điểm huyệt mộ phần hai ngôi
Hướng cầu tự sinh sôi nảy nở
Ba con trai chồng vợ sinh ra
THỦ TÀI - THỦ THỌ - THỦ KHOA.
Sân Nho, cửa Khổng kinh qua sách đèn.
Vừa ruộng rẫy, lo toan kinh tế.
Vừa học hành thế hệ truyền lưu.
Lần hồi kết nghĩa làm sui.
Trai lành gái đảm yên vui mọi nhà
Hôn đôi lứa, mẹ cha tác hiệp.
TRƯƠNG THỦ TÀI nối nghiệp tổ tiên.
Cùng bà Nguyễn Thị … kết duyên.
(Hai em cũng đã tư riêng một vài.
TRƯƠNG THỦ THỌ biệt khai phá hệ.
Cháu ba đời thừa kế là TÂM.
Vì đâu ruột thịt chia phân.
Một trang gia phả âm thầm dỡ qua.
Riêng em út THỦ KHOA vô tự.
Bởi chỉ sinh hai nữ một đời.)
May thay còn có THỦ TÀI.
Sớm sinh một gái, hai trai vui nhà.

TRƯƠNG THỦ BẢO, em là THỦ LỄ.
Hai anh em, con rễ Trần, Huỳnh.
Hạ sanh bốn phái đệ huynh.
Họ TRƯƠNG dấy nghiệp sản sinh đông người.
Vùng đất mới, đông vui tới tấp.
Tịnh Yên Tây lập ấp qui dân.
Tiền hiền TRƯƠNG TỘC đứng tên.
Họ Phan, họ Nguyễn về bên hậu hiền.
Người TRƯƠNG TỘC Thanh Yên, Thanh Quít.
Từ Thanh Ba đất Bắc vào đây.
Dù là duyên hải miền Tây.
Anh em như thể chân tay một nhà.

Tự hào bấy xem qua sử tộc.
Cũng lắm người vì nước hy sinh.
Người quan trấn thủ bộ binh (TRƯƠNG Thanh Quýt).
Người đi phạt Bắc, bình Chiêm không về.
Quảng Nam đạo vua Lê mở nước.
Phủ Điện Bàn, Diên Phước huyện ta.
Về sau Đại Lộc chia ra. (Đại Lộc có từ đời vua Thành Thái năm thứ 9, tức khoảng năm 1900)
Vẫn chim một tổ sinh ra nhiều đàn.

TRƯƠNG THỦ BẢO, trưởng nam: Phái nhất.
Bà họ Trần chánh thất hạ sinh.
TRƯƠNG CÔNG PHÁI, TRƯƠNG CÔNG NINH
Ngày nay thế hệ đàn anh chúng mình.
TRƯƠNG THỦ LỄ, vợ HUỲNH THỊ HỘT.
Con kế thừa dòng tộc hai nam.
THỦ THÀNH, THỦ KỈNH rõ ràng.
Khi nên gia thất, rời làng đi xa.

TRƯƠNG THỦ TRÍ, em là THỦ CÚC.
Con ông THÀNH cùng lúc ra đi.
Ngày nay phổ hệ còn ghi.
Vào Gia Định tỉnh, Nam Kỳ làm ăn.
Sau sinh hạ ông CHĂNG, ông GẤM.
TRƯƠNG CÔNG ĐĂNG, CÔNG CẨM chính danh.
Lâu nay con cháu ông THÀNH.
Ta chưa tìm được mối manh cửa nhà.

TRƯƠNG THỦ KĨNH cùng bà THỊ TIẾP (TÉP).
Ở lại làng sanh hạ bốn nam.
Tứ hùng TRUNG – CHÍ – Ý – ÂN.
Hai em đi lính, hai anh ở nhà.
Hay kế tự, còn ba ông trước.
TRƯƠNG THỦ ÂN em út trận vong.
Tộc làng đắp mộ chiêu hồn.
Hữu ban liệt sỹ danh còn hiển linh (ông ÂN ông Ý đều tử trận).
Trương TAM PHÁI tôn vinh từ đó.
TRƯƠNG THỦ TRUNG - Cao tổ Phái nhì.
Phái ba THỦ CHÍ nhiều Chi.
Phái tư THỦ Ý tôn ty rõ ràng.

TRƯƠNG TỨ PHÁI huy hoàng nội ngoại.
Cùng một nguồn một cội sinh ra.
Ngài TRƯƠNG THỦ CHIẾM chúng ta.
Năm trăm năm ấy gốc ta chính Ngài.
Sự nghiệp lớn cao dày công đức.
Góp bàn tay mở nước bung dân.
Đình chùa tư lễ, tư văn.
Quan, hôn, tang tế, hoa đăng hội hè.
Tu tảo mộ Xuân kỳ Thu tế.
Mở học đường, đắp mộ, đào kinh.
Đàng hoàng, trật tự, nghiêm minh.
Thuần phong mỹ tục, dưới trên thuận hoà.
Noi chí lớn ông cha ngày trước.
Truyền thống xưa, công đức người xưa.
Ơn trên nhuần gội móc mưa.
Cao như non Thái, sâu vừa biển Đông.

Vợ và con truyền trong hơi ấm.
Tia máu Người còn thấm tim ta.
Xuyên từng thớ thịt, làn da.
Mà sao con cháu chúng ta hững hờ.
Đồng Cửa Trại, mộ ngài nằm đó.
Một năm dài mới có lần thăm.
Chỉ ba tất đất người nằm.
Hàng ngàn con cháu, hàng trăm gia tài.

Hỡi TRƯƠNG TỘC nào ai ý thức.
Mười sáu đời phần phước Tổ tiên.
Cơm ai sống, giống ai nên.
Kẻ dưới lệch lạc người trên dạy bày.
Hãy giải thích điều hay, lẽ tốt.
Hãy động viên cho trót, cho thông.
Chim có tổ, người có tông.
Ăn quả phải nhớ người trồng cây xưa.
Hãy hạn chế say sưa nhậu nhẹt.
Bởi tiêu xài lòe loẹt xa hoa.
Làm ăn nên nỗi cửa nhà.
Ưu tiên nghĩa vụ ông bà phải lo.
Nếu Tổ phụ so đo ngày trước.
Sợ đường xa, sợ bước gian truân.
Suốt đời giá áo túi cơm.
Làm sao có được họ TRƯƠNG nơi này.
Hun đúc bởi bàn tay, khối óc.
Bẩm sinh Người tầm vóc lớn khôn.
Trăm năm tạc một chữ đồng.
Vợ chồng sống thác tảo tần có nhau.
Vì thế hệ mai sau gia thất.
Vì tương lai tấc đất, tấc vàng.
Sau cây cổ thụ nhiều cành.
Hàng trăm quả ngọt, hàng ngàn hoa thơm.

Ta há dễ vong ơn bội nghĩa.
Cùng bổ tu nghĩa địa Tổ tiên.
Chỉnh trang khu mộ Tiền hiền.
Tuy đơn hình thức, nhưng tuyền nội dung.
Đừng cạn nghĩ “cha chung ai khóc”
Nhờ phước phần “ăn vóc học hay”
Mỗi năm chỉ có một ngày.
Nước trôi ra biển mây quay về nguồn.

Niềm hiếu thảo những mong ai nấy.
Vì tiền nhân lo bảy lo ba.
Mấy lời kính cẩn thiết tha.
Xin Ngài phù hộ cho ta mọi điều.

Tháng 8 năm Mậu Thìn (1988).
TRƯƠNG TÂM CANG
Gia Phả TRƯƠNG CÔNG 张 世 家 譜
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc TRƯƠNG CÔNG 张 世 家 譜.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc TRƯƠNG CÔNG 张 世 家 譜
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.