ÔNG NGUYỄN TÍNH
TIỀN TRIỀU CÁO THỤ TRÁNG KIỆN KỲ ÚY TIÊN PHONG DỊCH HOÀN VÕ VỆ THẤT ĐỘI CHÍNH ĐỘI TRƯỞNG SUẤT ĐỘI TRẬT CHÍNH LỤC PHẨM ĐÁI NGUYÊN HÀM HỒI QUÁN HƯU DƯỠNG BẢN XÃ VĂN VÕ HỘI TIÊN CHỈ HƯƠNG ĐÌNH THỦ CHỈ NGUYỄN QUÝ CÔNG TỰ BẢN THIỆN THỤY HÙNG KÍNH PHỦ QUÂN
Ông Nguyễn Tính là con trai thứ hai ông Sĩ Uyên và bà Cù Thị Thỏa, cháu ông Chánh tổng Nguyễn Sĩ Sùng và bà chính thất Nguyễn Thị Thứ mọi người thường gọi là ông Đội theo chức phong của Triều đình. Ông sinh năm Nhâm thân -1832 taị làng Ân Phú huyện Hương Sơn đời Vua Minh Mạng năm thứ 13.
Theo bút tích trong tập nhật ký của ngài để lại, thủơ nhỏ ông học chữ Hán. Ông là người hùng tráng cương trực, am hiểu võ nghệ và đã gia nhập Quân đội dưới triều Tự Đức năm thứ 11 tức là năm 1858 lúc tuổi 27, chính năm ấy Pháp tấn công Đà nẵng bắt đầu xâm chiếm Nước ta.
Sau khi gia nhập Quân đội, ông trấn giữ tả vệ Nghệ An. Tháng 8 năm Tự Đức thứ 13 (1860) ông được phong chức Ngụ trửơng, tháng giêng năm Tự Đức thứ 15 (1862) ông được điều về Kim Môn -Nam Sách, trấn giữ hai phủ và các huyện, đã giao chiến với địch bắn chết 1 tên được thưởng tiền -tháng sáu năm ấy trở về tỉnh lỵ đến tháng 12 được cấp bằng Đội trưởng.
Tháng 10 năm Tự Đức thứ 22 (1869) lúc này Pháp đã chiếm xong 6 tỉnh Namkỳ, chuẩn bị ra đánh miền Bắc, ông được phái về tỉnh Nam Định bổ sung canh giữ đồn Tuất đến nămthứ 23, tháng 8 ông lên đóng quân ở Lạng Sơn, đã đi đánh trận vào sào huyệt của địch ở Vân Mộng, Tâm Nguyên, Bắc Ngà, La An các trận giao chiến đều thắng lơịđươc thưởng tiền. Đến tháng 10 ông được thăng chức Đội trưởng, tháng 11 về tỉnh đóng quân.
Tháng 10 năm Tự Đức thứ 26 (1873) tại tỉnh Lạng Sơn ông được bổ nhiệm chức “Tả vệ Đội Ba Suất Đội “ rồi đưa quân đi hầu ông Kinh lược Đại thần taị Nam Định. Quan Đại thần phái đem quân đi mọi phủ huyện giám sát và dụ giỗ dân chúng làm ăn bình thường rồi trở về Ninh Bình luyện tập.
Tháng 2 năm Tự Đức thứ 27 ông lại trở về tỉnh, tháng 3 năm Tự Đức thứ 28 ở tỉnh có sát hạch dự hạng (?) bổ hoàn võ vệ thất Đội chánh Đội trưởng Thất Đội, đến tháng 11 tiếp lục phong của Vua sắc “Văn chánh Độ trưởng suất Đội”. Tháng 8 năm Tự Đức thứ 29 cấp trên phái ông đem quân tinh nhuệ theo Quan Đề đốc tỉnh Nghệ An qua phủ Tương Dương trấn giữ, tháng 11 tiến đánh sào huyệt giặc ở đồn Na Lan, xung phong đột nhập phá đồn lũy thắng trận bắt được nhiều giặc. Đến tháng 12 ông lại giao chiến ở đồn Thái Hai Khe, thu được nhiều khí giới, thắng trận được thưởng tiền.
Tháng 2 năm Tự Đức thứ 30 (1877) xét từ trận đánh đồn Na Lan, ông được tặng thưởng quân công và một cái thẻ bạc. Tháng 3 năm ấy Cha mất ông về hộ tang.
Tháng 8 năm Tự Đức thứ 32, ông được xét bổ chức “Võ vệ Thất Đội Chính Đội trưởng Suất Đội”
Tháng 12 năm Tự Đức thứ 34 và tháng Giêng năm sau (1882) ông trở lại Nam Định và đến tháng 8 ông dự thao diễn, dự hạng trung bình.
Tháng 2 năm Tự Đức thứ 35 (1882) ông trở laị tỉnh. Tháng 4 năm ấy Mẹ mất ông về hộ tang.
Tháng 7 năm 1883 Vua Tự Đức băng hà. Triều đình nhà Nguyễn lúc này rất lục đục. Thực dân Pháp kéo quân vào cửa biển Thuận An đánh chiếm Kinh thành Huế.
Vua Dực Đức mới lập bị phế truất, Vua Kiến Phúc lên ngôi còn nhỏ tuổi. Lúc này ông được lệnh vào phòng thủ Kinh đô Huế được phong chức “Chấn võ vệ Lục Đội Chính Đội trưởng Suất Đội.
Khi quân Pháp chiếm được Kinh đô Huế, Triều đình nhà Nguyễn ký Hoà ước 25 tháng 8 năm 1883. Điều ước Hắc-măng thừa nhận bảo hộ của Pháp ơ Bắc và Trung kỳ. Khu vực ảnh hưởng của Triều đình thu hẹp từ Đèo Ngang tới Khánh Hòa, Nam kỳ là thuộc địa của Pháp từ tỉnh Bình Thuận trở vào.
Lúc naỳ trong Triều đình có hai tư tưởng thân Pháp và chống Pháp, Vua Kiến Phúc và Trần Tiến Thành có tư tưởng thân Pháp đều bị thủ tiêu bí mật. Vua Hàm Nghi lên ngôi lúc mới 14 tuổi, Quan Đại thần Tôn Thất Thuyết phụ chính không muốn cho Pháp cai trị, ông có mưu đồ phục Quốc nên nửa đêm đưa hai bà Hoàng hậu và Vua với Ngai vàng cùng Quân đội, vũ khí ra Cam Lộ -Quảng Trị và Quảng Bình tìm cách chống giữ, nhưng không nỗi rồi dự định trốn sang Lào, sang Xiêm cầu cứu.
Lúc này ông bị bệnh, tuổi đã ngoài 50 trải chinh chiến gần 30 năm nên được quan Đại thần Tôn Thất Thuyết ký lệnh phê chuẩn cho về quê quán nghỉ hưu.
Từ đó ông trở về quê an cư lạc nghiệp taị quê nhà cho đến tuổi già, giữ trọn tấm lòng Trung Quân Ai Quốc.
Cuộc đời của Ngài đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và giang sơn. Được phong hai đạo Sắc mọt Chính phẩm, một Lục phẩm và bốn đạo Bằng.
Ong mất ngày 22 tháng 6 năm At mão -1915 hưởng thọ 84 tuổi.
Mộ taị Nghĩa địa Đá bạc.
Bà Lê Thị Cũng
Quê Hòa Yên nay là Xã Đức Lạc. Dị hiệu” Tùng Phu tước Nguyễn Chính thất hiệu Hiếu trinh thục Lê Thị Yên Nhân chi linh”
Kỵ ngày 3 tháng 4.
Mộ taị Nghĩa địa Đá bạc.
Con trai Nguyễn Quýnh ( Trưởng),Nguyễn Báo( Thứ 4)
Con gái
Nguyễn Thị Huỳnh (Thứ 2)chết sớm
Nguyễn Thị Thoong (Thứ 3) Chồng Trần Viên -Vô tự. Kỵ 16 tháng 2 Mộ cải táng tại Rú Ngai
Nguyễn Thị Hội (Thứ 5)Chồng Trần Ấm(Cố Luận)
Nguyễn Thị Hạ (Thứ 6)Chồng Trần Tự (Cố Giảng)
Nguyễn Thị Hòa -Chết sớm, táng tại Đầu cầu