Lược sử dòng họ HUỲNH.
ÔngThuỷ tổ tộc HUỲNH là HUỲNH VĂN HIẾN quê ở xã Bắc Lâm, (huyện Phong Dương), phủThăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Nay là thôn Bắc Lâm, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông đến lập nghiệp tại làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi từ đời Gia Long năm thứ 2 (năm Quý Hợi 1803), đến nay trên 210 năm. Lúc vào Quảng Ngãi ông làm nghề Đông y; quá trình khám bệnh và bốc thuốc chữa bệnh cho dân, ông được các ông quan của Tỉnh, của Phủ lúc bấygiờ tín nhiệm. Vì vậy, khi khởi công xây dựng nhà thờ tộc HUỲNH được các ông quan Tỉnh, Phủ hỗ trợ xây móng nền nhà thờ. (Trong bia mộ của ông có ghi ông là thầy thuốc; chữ Nho gọi là Y SINH, có nghĩa là Bác sĩ). Khi còn ở quê là tỉnh Quảng Nam, ông đã có một đời vợ gọi là bà Thị Sào (không rõ họ gì), sinh được 3 người con là:
1.HUỲNHVĂN PHONG
2.HUỲNH VĂN GIANG
3.HUỲNH THỊ LẪM
Ngoài ra ông và bà Thị Sào còn có người con nào nữa không rõ. Ba người này theo ông vào ở hẳn tại làng Vạn An, xã Nghĩa Thương (thôn Vạn An bây giờ trước kia gọi là làng Vạn An). Sau đó, ông Huỳnh Văn Giang, bà Huỳnh Thị Lẫm mất lúc còn nhỏ, còn lại ông Huỳnh Văn Phong lớn lên lập gia đình và có con cháu đến tận ngày nay. Khi đến thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, ông kết hôn với bà LÊ THỊ THUYẾT sinh được sáu (6) người con:
1.HUỲNH VĂN TRỰC
2.HUỲNH THỊ CHUNG
3.HUỲNH VĂN HẢO
4.HUỲNH VĂN THÚ
5.HUỲNH VĂN PHAN
6.HUỲNH THỊ THÊM
Như vậy, theo Gia phả tộc Huỳnh để lại, ông thủy tổ tộc Huỳnh có hai đời vợ, có 9 người con gồm 3 người từ Quảng Nam vào, 6 người sinh ra tại làng Vạn An, xã Nghĩa Thương. Gia phả không ghi tên vợ của các ông, chỉ thấy tên con. Theo thứ tự các con trưởng, thứ của hai đời vợ của ông được chia thành từng phái:
ÔngHUỲNH VĂN PHONG con trưởng đời vợ cả và ông HUỲNH VĂN TRỰC con trưởng đời vợ thứ xếp vào phái Nhất;
Ông HUỲNHVĂN HẢO con thứ đời vợ thứ, vì chỉ sinh 2 con nhưng mất từ nhỏ, không có cháu chắt sau này nên xếp vào phái Nhất.
Bà HUỲNHTHỊ CHUNG có chồng phía Họ TRẦN ở làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nhà đất ở sát phía nam nhà thờ tộc Huỳnh. Mảnh đất này nguyên của tộc Huỳnh. Khi bà Huỳnh Thị Chung xuất giá về phía tộc Trần được ông thủy tổ cắt đất cho bà làm của hồi môn.
Ông HUỲNH VĂN THÚ con thứ đời vợ thứ xếp vào phái Nhì.
Ông HUỲNHVĂN PHAN con thứ đời vợ thứ xếp vào phái ba. Phái này không thấy cháu chắt về sau. Chỉ thấy ông Huỳnh Văn Bình, không rõ cha mẹ là ai, không có cháu nội, cháu ngoại thờ ông ở thôn Phú Nhơn, xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa (nay là thành phố Quảng Ngãi).
Bà HUỲNHTHỊ THÊM không rõ trường hợp mất như thế nào. Nhưng Gia phả có ghi là chiêu hồn về táng tại Gò Cây Ngái làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy, chỉ có 2 phái là phái ông Huỳnh Văn Phong, Huỳnh Văn Trực (phá Nhất) và phái ông Huỳnh văn Thú (phái Nhì) là có con cháu đến ngày nay.
Mộ ông Thuỷ tổ HUỲNH VĂN HIẾN nằm trong khuôn viên nhà thờ tộc HUỲNH ở làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Mộ ông Thủy tổ được lập năm Tân Tỵ 1881, trùng tu vào năm Tân Tỵ 1941 sau khi xây và khánh thành nhà thờ năm Canh Thìn 1940, và trùng tu lại vào năm Tân Mẹo 2011. Năm Canh Thìn 1940, ông Huỳnh Văn Nhu còn gọi là Biện Trong là chủ hiệu buôn Quảng Đông An (hiệu buôn này do 3 người ở Năng Đông, Vạn An góp vốn kinh doanh) chủ động dùng tiền của mình xây dựng toàn bộ nhà thờ tộc Huỳnh, con cháu nếu có người góp công xây dựng đều được ông chi trả ngày công.
Mộ Bà Thủy tổ ở Gò Giàng, làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi và được con cháu trùng tu năm Ất Mùi 2015. |