Trước khi vào phần chính của gia phả hãy xin có mấy trang giải thích về mấy mục cần phải biết để xem gia phả cho thật hiểu, đó là những mục:
-
Gốc tích làng Me
-
Gốc tích chữ họ Đàm
-
Phép thi cử chữ Nho của ta trước
-
Phép đặt tên của các cụ trước
-
Phép thăng thưởng các quan
-
Cách ghi thế chữ cho rõ
-
Bài thơ " Bài - hàng"
Làng ta nguyên trước tên là Cô Mác Phương, gồm cả ba làng Kim Thiều, Hương Mặc và Vĩnh Thọ bây giờ. Theo những sách cũ như " Danh công truyền ký" và các gia phả cũ, thì cổ Mặc là một phường thuộc khi Kinh Kỳ Phong Khê đời nhà Thục.
Đời nhà Trần đổi là Chung My Phường.
Có mười hai thôn là:
1- Ngô Tiễn |
2- Ngô- Trực |
3- Tây ứng |
4- Bảo Pháp |
5- Đông Tiến |
6- Thọ Triễn |
7- Phú Hậu |
8- Vân |
9- Nhiễm |
10- Nũi |
11- Nga |
12- Tập |
Bảng 1 - Các thôn trong l àng Hương mạc đời nhà Trần
Đời nhà Lê đổi chung My Phường là Ông Mặc Xã.
Đời Hậu Lê thấy làng to quá mới chia là hai cho sự thi cử được dễ đỗ hơn, lấy các thôn Ngô Tiền, Ngô Trực, Tây ứng, Bảo Tháp, Đông Tiến và Thọ Triên đặt là làng Ông Mặc lấy các thôn Văn, Nhiễm, Phú Hậu đặt là làng Hoa Thiều.
Con ba thôn Nga, Nũi và Tập thì có lẽ bây giờ đã mất rồi nên không thấy nói đến nữa.
Đến đời Minh Mệnh, mới đổi Ông Mạc là Hương Mặc, Hoa Thiền là Kim Thiền. Tiếng thôn đổi ra ngõ có lẽ cũng từ bấy giờ, riêng thôn Thọ Triều thì không biết đổi ra Vĩnh Thọ thôn tự bao giờ và vì đã biết lập gần như một làng khác, nên vẫn giữ chữ thôn và gọi chánh ra là làng Sôn, để đối lại với làng xã ở bên Hương Mạc, lại còn là Me Triều hay Me Con để đối lại với Me Cả. Họ Đàm ra nguyên trước ở thôn Ngô Tiền, mãi đến đời Hậu Lê mới lẫn sang thôn Ngô Trực và thôn Bao Tháp.
Thôn Nũi cũng thuộc về địa phận làng này nhưng không biết chính xác là ở chỗ nào bây giờ.
Ta chỉ biết rằng cụ Nguyễn Đoan Van đỗ Thám Hoa đời nhà Trần là người thôn Nũi nên vẫn gọi là Cụ Thám Nũi. Có người bảo thôn Nũi ở vào quãng làng Mắc lên chùa Hốt (chùa làng ta) nhưng không biết có đúng không.
Theo sử chuyện tiên của Văn Hoa bên Tầu thì những chữ đặt tên họ của một dòng dõi nào đều theo nguồn gốc sau này:
Nguyên xưa từ quãng đầu nhà Tây Chu trở lên chưa có chữ Họ nhật dịch, xem như sử (chép vua Văn Vương nhà Chu tên là Co Sương là con ông Vương Quy, là cháu ông Công Lưu là chắt ông Cô Công Dân Phu, ông Khổng Tử là con ông Thúc Lương Ngột Thi biết.
Mãi đến đời Xuân Thu, Chiến quốc, con cháu các họ suy vi mới lấy những chữ tên phong ấp, tên quan tước của ông cha thủa trước đặt lên tên chữ tên mình để kỷ niệm sự vinh quan thế là dần dần thành tên họ nhất định.
Bởi thế cho nên chữ tên họ thường trùng với các chữ tên cả nước Chư Hầu. Thí dụ: Tào, Ngô, Nguyễn... hay chữ tên quan tước thời Thương Chu: Tư Mã, Thái Sư...
Chữ tên họ Đàm ta cũng theo một nguồn gốc ấy. Sử Tầu chép rằng: ông Vi Tư là họ gần vua Trụ, nhà Ân thấy vua Trụ bàn bạo, biết can không được mới mang các đồ thờ các vua nhà Ân chạy sang ở nhà Chu. Khi vua Vũ Vương nhà Chu diệt được vua Trụ rồi mới phong ôn Vi Tư làm vua Đàm để thờ cúng tổ tiên nhà Ân. Khi vua Tề Hoàng Công lấy mất nước Đàm, con cháu ông Vi Tư mới lấy chữ Đàm làm tên họ.
Nguyên thuỷ chữ họ Đàm là thế, còn như họ Đàm ta có phải thật là dòng dõi ông Vi Tử mà lưu lạc sang bên ta, như nhiều cụ họ ta vẫn tự hào là thế, hay không, hay là một dòng dõi nào có một nguồn gốc khác thì hỡi ôi! Việc đã trải bao ngàn năm qua, còn biết mấy bằng chứng đâu mà đoán cho đích xác được. Ta chỉ biết họ Đàm là một dòng dõi khá, hiền lành, khảng khái và hơi có khiếu thông minh, nếu biết cố học hành thì thật chẳng thua kém họ nào.
Hè Quý Tỵ (1953)
" Thuật lại lời của ông Tuân Đàm Duy Huyền và nói rộng ra"
Muốn hiểu sự nghiệp các cụ, ta cần phải biết phép khoa cử cũ của ta và phép thăng thưởng trong quan trường.
Thi lúc trước có hai bậc chính, bậc dưới là thi Hương, bậc trên là thi Hội và thi Đình.
Thi Hương có những kỳ thi Kinh Nghĩa (đệ nhất trường) kỳ hơ phú (đệ nhị trường), kỳ văn sách (đệ tam trường) và kỳ Phúc Hạch (nghĩa là thi lại cả các bài trước). Những người đỗ thi Hương chia làm hai hạng:
-
Hạng trên đời Lê gọi là Nho Sinh Trúng Thức hay là Hương Cống, đời Nguyễn gọi là Cử Nhân.
-
Hạng dưới đời Lê gọi Nho Sinh hay Sinh Đồ, đời Nguyễn là Tú Tài.
Lối chấm văn ta trước, văn tốt lắm thì phê ưu (9/10, 10/10), tốt phê bình (7/10,8/10), tốt vừa thi phê bình thứ (6,5/10, 6/10, 5,5/10) thứ Mác (5 hay 4,5/10) kém thì phê Thứ Cộc (4 hay 3,5/10) Thứ Muỗi (3 hay 2/10) kém lắm thì phê liệt 91 hay 0/10).
Kỳ nào cũng vậy, văn ai được phê thứ trở lên thì được vào thi kỳ sau. Song ba kỳ đầu nếu được một hai kỳ thư mạc thì được đỗ Tú Tài.
Ai được một hai ký phê bình trở lên thì mới được vào kỳ Phúc Hạch. Văn Phúc Hạch có tốt ít ra được Thứ Mác trở lên thì mới được đỗ Cử Nhân, ai tầm thường Thứ Cộc thì lại xuống Tú Tài, ai kém quá thì hỏng tuột.
Thi Hội: Thi Hội có bốn kỳ, và một kỳ thi Đình do vua làm chủ khảo. Thi Hội cũng thi nhưng bài Kinh Nghĩa, thơ phú, văn sách như thi Hương, nhưng bài ra khó hơn, bài nhiều hơn, và thêm các bài văn Tứ Lục, nghĩa là khó hơn, dài hơn nhiều, và thêm các bài vănTứ Lục, nghĩa là Đối, làm Chiêu, Biểu, Chê,Sắc.
Văn bốn kỳ thi Hội ít ra cũng phải được một kỳ Bình và mấy kỳ thứ Mác trở lên thì mới được vào thi Đình (Triều Nguyễn, văn 5,6 phần trở lên là ưu. văn lý không được 1 phần là hỏng, nhưng thông tính cả 4 kỳ Hội có được 7 phần trở lên mới được vào thi Đình).
Văn Đình có tốt lắm mới được Tiến Sĩ, tốt vừa (Thư Mạc) thì chỉ được đõ Phó Bảng.
Đại khái lôi chân, lối lựa chọn là thế, trong còn nhiều chi tiết khác, kể không siết được, và mỗi lúc một thể lệ không nhất định.
Người đỗ thi Hội chia ra làm hai hạng:
- Hạng trên là Tiến Sĩ hay Giáp Bảng
- Hạng dưới là Phó Bảng hay ất Bảng
Bằng tiến sĩ chia ra làm Ba giáp:
1- Đệ Nhất Giáp gọi là Tiến Sĩ cập đệ và có ba người là : Trạng Nguyen hay đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, đệ nhất danh, Bảng Nhỡn hay đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ cấp đệ, Đệ Nhị Danh, Thám Hoa hay đệ nhất giáp, Giáp Tiến Sĩ cấp đệ Tam Danh.
2- Đệ Nhị Giáp gọi là Tiến Sĩ Xuất Thân số người đỗ tuỳ số văn không nhất định.
3- Đệ tam giáp gọi là Đồng Tiến Sĩ xuất thân, số người đỗ cũng không nhất định.
Ai đỗ Tam giáp Đông Tiến Sĩ thì gọi là Ông Nghè, ai đỗ Nhị Giáp thì ai đỗ bực nào thì gọi bực ấy: ông Trạng, ông Bảng.
Triều Nguyễn lấy ai đỗ Trạng Nguyên, và chỉ có vài ông Bang Nhãn (cũng nên chú ý đừng lầm Bảng Nhỡn với Phó Bảng đã nói bên trên), vì đều gọi là ông Bảng cả.
Ai đỗ đầu kỳ thi thứ tư thi Hội, thì gọi là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình thì gọi là Đình Nguyên. Ai thi Hương đỗ Giải Nguyên đỗ đầu Cử Nhân kỳ thi Hương thì gọi là Thủ Khoa hay Giải Nguyên. Ai thi Hương đỗ Giải Nguyên, thi Hội đỗ Hội Nguyên, thi Đình đỗ Đình Nguyên, thì gọi là Tam Nguyên. Triều Nguyễn có ba ông Tam Nguyên là ông Vũ Phạm Hàm, ông Trần Bích San, ông Nguyễn Khuyến (thường gọi là ông Tam Nguyên Yên Đổ)
Trong sự thăng thưởng trong quan trường ta thủa trước có ba tiếng: Thăng, Phong, Tặng.
- Thăng là nhấc từ bậc dưới lên bực trên.
- Phong là thưởng quan hàm cho người còn sống, hay thưởng những ngôi bực cho các vị bách thân, thí dụ như phong quan hàm cho cha mẹ các quan to, phong sắc cho Đức Thánh Gióng.
- Tặng là thăng hàm hay thưởng hàm cho người đã chết rồi. Khi ai được thăng hàm thì người sống chép tờ sắc ra tờ giấy vàng, làm lễ cúng khấn rồi đốt rờ giấy vàng chép sắc ấy đề người chết biết, làm như thế gọi là lễ " Phân Hoàng" (nghĩa là đốt giấy vàng).
Theo phép đặt tên của các cụ ta, thì mỗi người có mấy thứ tên sau này: Húy Tự Hiệu Thuỵ
Tên Huý tức là tên " cái" đặt ở dưới chữ họ và lót và thường dùng làm tên biên vào sổ Đinh để làm tên chính đáng nhất của công dân. Tục ta trước kia con cháu phải kiêng tên huý của ông cha, có gặp thì phải đọc tránh đi, như Thạch thì đọc là Thịch, Du thì đọc thành Do...
Bởi vậy mới gọi tên Huý nghĩa là kiêng.
Tên Tự là tên đặt theo nghĩa với chữ tên Huý, hoặc chúng nghĩa để giảng cho rõ thêm, như ông Gia Cát huý Lượng (nghĩa là Sang), tự Khổng Minh (nghĩa là rất sáng) hoặc để chứa ý quá đáng của chữ huý hay có ý khuyến khích, như quan công Huý vũ (lông cánh) tự Vân trường có ý khuyên đã tên là Vũ thì phải ra sức bay cao và dai đề đua với mây trên giời.
Tên Hiệu thường lấy tên sông Núi, làng, Tỉnh hoặc lấy phong cảnh gì mình thích mà đặt tên thí dụ: Châu Giang, Mai Sơn,,,
Tên Thuỵ tức là tên cúng cơm đặt vào lúc sắp mất hay lúc vừa mới mất. Tên Thuỵ phải đặt theo tính tình hay đỡ lúc sinh thời. Người xưa đặt ra tên Thuỵ có ý khuyên người ta nên ăn ở tử tế thì được đặt tên hay để lại mãi, nếu ăn ở không ra gì thì sẽ mang tên xấu suốt đời. Về sau con cháu kiêng kể xấu ông cha, không nỡ đặt tên xấu thành ra mất ý nghĩa tên Thuỵ.
Ba thứ tên Tự Hiệu Thuỵ ta thường gọi lẫn và ít khi có người đủ cả ba thứ tên này. Vả lại ta có tục dành riêng chữ Thuỵ cho người có quan tước, có tên Thuỵ nhà Vua đặt sẵn, còn người thường thì vẫn gọi tên Thuỵ là tên Hiệu, thí dụ Cụ Vô Tâm, đáng nhẽ phải nói Cụ Thuỵ là Vô Tâm, song đây lại biên hiệu là Vô Tâm. Gia Phả họ nhà tên Thuỵ các cụ phần nhiều biện là hiệu như thế cả.
Thế thứ các đời đều ghi bằng chữ số cho dễ nhận. Chi chính thì để đời thứ mấy và thường gọi của các cụ cho khi tìm dễ thấy.
Thí dụ: Đời thứ 3, Cụ Tiết (1463- 1526), còn những chỗ kể con cháu mà các chi bàng, thì mỗi người lại đánh dấu đời thứ mấy bằng chữ số to, và đánh thứ tự trên dưới trong bọn ngang hàng bằng chữ số nhỏ, thí dụ:
4/1: Cụ Quang Tả, 4/2: Cụ Quang Tán... chữ 4 ghi đời thứ 4, chữ 1, 2 nhỏ ghi Cụ Quang Tả là trưởng, Cụ Quang Tán là thứ. Cụ thứ nhất là anh, Cụ sau là em...
Khi tục biên nếu muốn thêm ai vào chỗ nào thì tìm chỗ đúng thế hệ nào, thứ tự nào, mà biên vào và thêm một chữ cái con vào bên hữu chữ số con, thí dụ: 19/21 ta muốn thêm 3 người nữa thì viết: 19/21a Giáp, 19/21b ất, 19/21c Bính...
Những dòng nào đầu các dòng chính thì biên nguyên vẹn chữ nhỏ để khi cúng thì cứ thế mà khấn cho gọn và tiện.
Đời nào cũng có những mục sau này, ai muốn tục biên cứ theo thế mà chép.
a- Đời thứ mấy nói về cụ nào.
b- Mấy dòng nào đầu biên danh hiệu vẫn đọc khi cúng khấn của các Cụ theo tiếng chữ nho Tiên tổ khảo là Cụ ông TiênTô Ty là Cụ bà, Tiểu thứ tổ là cụ trẻ.
c- Đoạn kể sự tích công nghiệp của cụ ông, rồi đến đoạn kể dòng dõi quê quán cụ bà, và sự tích công đức Cụ bà.
d- Đoạn kể mộ các cụ ở đâu, hướng nào.
e- Đoạn kể các con, con gái kể tóm tắt trước, các con trai kể rõ ràng từng người ở sau. Riêng ông con về chi chính thì lưu lại để biên vào đời tiếp sau.
Cụ Đốc học Nguyên Lê thấy họ ta đông người, nhiều khi quên lẫn không nhận được thế thứ, nên mới đạt ra bài thơ sau này, cho mỗi đời con cháu dùng một chữ làm chữ lót, để khi có xa cách nhau, thì cứ chiếu chữ lót trên là nhận ra ngay được vai họ trên dưới. Bởi vậy gọi là bài thơ bài hàng (nghĩa là bầy hàng nào ra hàng ấy). Xin kính lục ra đây:
Duy |
Trung |
Hiếu |
Truyền |
Gia |
Thượng |
Miễn |
Tư |
Kế |
Thiệu |
Thiện |
Diễn |
Cát |
Khánh |
Trường |
Tiên |
đức |
Hữu |
Quang |
Riêu |
Bảng 2- Bài thơ Bài Hàng
Nghĩa đên từng chữ:
Duy là bùi, là chỉ có. Trung là lòng tử tế với vua với nước, Hiếu là lòng tử tế với cha mẹ, Truyền là người nọ để lại cho người kia, Gia là nhà.
Thương là chuồng, là mong, Miễn là cố gắng, Tư là lễ nghi, Kế là nối về đường nghề nghiệp, Thiệu là nối về đường tâm chí.
Thiên là khéo là hiền lành, Diễn là làm, là dãi bầy ra, Cát là tốt, Khánh là phúc, Trường là dài.
Tiên là trước có tổ tiên, Đức là việc tử tế, bụng tử tế, Hữu là có, Quang là sáng sủa, vẻ vang cho người trước, Riệu là vẻ vang sáng sủa cho người sau.
Ý nghĩa cả bài: Nhà ta đời nọ truyền đời kia chỉ có đạo trung hiếu. Ta mong rằng ai cũng nghĩ lấy cách nối dõi cho xứng đáng. Ta phải khéo ăn ở theo đạo ấy. Ta phải ăn ở theo đạo, ấy thì mới được hưởng phúc lành lâu dài. Các công đức của tổ tiên nhờ đó sẽ được vẻ vang rực rỡ thêm.
Diễn nôm
Nhà ta dòng dõi hiếu trung
Gắng công truyền nối, dốc lòng chớ sai
Khéo ăn ở phúc lâu dài,
Rõ ràng công đức mọi đời tổ tiên.
Ba đời trên Cụ Đốc đặt là:
- Di tổ: Nghĩa là ông tổ để phúc dục lại cho con cháu
- Khai tổ: Ông tổ bắt đầu làm vẻ vang cho con cháu
- Thủy Tể: Ông Tổ bắt đầu làm nên sự nghiệp to tát.