GIA PHẢ
HOÀNG TỘC THÔN LAI
Kính tưởng nhớ các vị Liệt tổ, Liệt tông,
Thưa các bậc cao niên và toàn thể thành viên trong Họ,
Đã là người Việt Nam, gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và ai cũng ý thức được rằng: CON CHIM CÒN CÓ TỔ, CON NGƯỜI PHẢI CÓ TÔNG.
Thờ phụng tổ tiên là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta; mỗi dòng tộc có chung một cụ Thuỷ tổ đã có công sinh thành, dưỡng dục, gây dựng các thế hệ của dòng họ từ đời này nối tiếp các đời sau. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, để giữ được mối quan hệ ruột thịt, thứ bậc trên dưới, mỗi dòng họ phải có gia phả để ghi chép quá trình hình thành, phát sinh, phát triển của họ mình; đồng thời giúp cho các thế hệ kế tiếp hiểu được lịch sử của dòng họ và truyền thống tốt đẹp của các bậc tiền nhân. Từ đó, xây dựng cho mình ý thức tôn trọng, biết ơn công lao của các bậc tiền bối, kế thừa và phát huy những tinh hoa của dòng họ, giữ gìn tình cảm thân tộc, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, xây dựng gia đình hoà thuận, có nếp sống văn hoá, có trật tự kỷ cương, kính trên nhường dưới, giàu có về kinh tế, đậm đà về tình cảm, cùng xóm làng xây dựng quê hương phồn vinh và thịnh vượng.
Tiếc rằng, thế hệ các cụ ngày xưa không để lại cho chúng ta gia phả hoặc những bút tích về dòng họ Hoàng, song thông qua những lời truyền lại bằng miệng, cách xưng hô, việc theo giỗ gánh tết giữa các gia đình trong họ, đã là những cứ liệu tin cậy giúp cho lớp con cháu chúng ta hôm nay ghi chép cuốn gia phả của Hoàng tộc thôn Lai.
Cuốn gia phả này là tư liệu lịch sử, là tài sản vô giá của dòng họ phải được lưu giữ cẩn thận và được các thế hệ kế tiếp ghi chép liên tục, tiếp tục hoàn thiện. Đồng thời, hàng năm cứ đến ngày giỗ tổ 15 tháng Giêng đọc lại để mọi người ghi nhớ.
Để xây dựng cuốn gia phả này, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, các bậc cao niên thế hệ thứ 5, thứ 6 của dòng họ đã tiến hành sưu tập tư liệu và đến năm 2000 (Canh Thìn) thì hoàn thành, đáp ứng lòng mong mỏi của toàn thể gia tộc.
Những người cung cấp tư liệu để viết gia phả:
Cụ Hoàng Thị Út
Cụ Nguyễn Thị Dĩnh
Cụ Tô Thị Suốt
Ông Hoàng Cát Lợi
Ông Hoàng Chinh
Ông Hoàng Văn Phương
Ông Hoàng Văn Nghĩa
Bà Giáp Thị Chức (bà Hanh)
Bà Hoàng Thị Lợi
Bà Giáp Thị Chức (bà Ninh)
Bà Nguyễn Thị Bài
Thành phần biên soạn gia phả:
Ông Hoàng Chinh
Ông Hoàng Văn Vàng
Anh Hoàng Thuận
Kính bút
BAN BIÊN SOẠN GIA PHẢ
NHỮNG CĂN CỨ KHẲNG ĐỊNH SỰ HÌNH THÀNH
CỦA HOÀNG TỘC THÔN LAI
1. Trải qua bao biến cố của lịch sử, các gia đình trong dòng họ ta vẫn quây quần, đùm bọc lẫn nhau, giữ được thứ bậc trên dưới, gồng giỗ, gánh tết một cách đầy đủ.
2. Những câu chuyện truyền lại từ đời cụ Thuỷ tổ đến nay rất trùng hợp với quá trình hình thành, phát triển của quê ta (thời Lê, Nguyễn quê ta là tổng Thiết Sơn, huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc).
3. Căn cứ vào vị trí địa lý của tỉnh Bắc Giang và những diễn biến lịch sử của đất nước trong khoảng 3 – 4 trăm năm trở lại đây.
Ba căn cứ trên đây giúp chúng ta nghiên cứu, sưu tầm để ghi chép lại cuốn gia phả này và là cơ sở khẳng định dòng họ Hoàng đến làng Lai sinh cơ lập nghiệp từ bao giờ và trải qua bao nhiêu thế hệ. Dưới đây là những chi tiết của từng căn cứ:
Tỉnh Bắc Giang trước đây là một phần của trấn Kinh Bắc, khu vực làng Lai xưa kia rừng núi rậm rạp, đất rộng, người thưa, người còn bị hổ báo ăn thịt (sự tích về mả và miếu Đức Bà làng Tĩnh Lộc, thần thờ trong miếu là một người đàn bà bị hổ vồ). Năm 1945, làng ta có trên 30 hộ với hơn 100 nhân khẩu, nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc, đời sống rất thấp kém.
Từ khi thực dân Pháp sang cai trị nước ta đến năm 1895 chúng chia trấn Kinh Bắc thành 2 tỉnh: Bắc Giang và Bắc Ninh. Các triều đại từ Lý, Trần, Lê đã xây dựng thành Xương Giang là tuyến phòng thủ chống quân xâm lược phương Bắc, quê ta xét về vị trí địa lý lấy ải Nam Quan làm điểm xuất phát xuống phía Nam, thì có núi, sông bao bọc, lại có rừng rậm che phủ (những năm 30 của thế kỷ XX, quê ta vẫn còn rừng lim, rừng ổi, rừng rẻ, rừng thông cổ thụ bao phủ), nên là địa điểm rất an toàn để nghĩa quân của các triều đại phong kiến xây dựng thành căn cứ hậu cần cho phòng tuyến Xương Giang. Các nhà quân sự xưa đã dùng chính sách “ngụ binh ư nông”, quân đội vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu khi có giậc ngoại xâm. Trong số những người lính đó, có một người con trai họ Hoàng ở lại làng Lai sinh cơ lập nghiệp - cụ Viễn tổ; nối tiếp từ cụ Viễn tổ rồi cụ Thuỷ tổ Hoàng Quý Cao đến nay đã trải qua 9 đời với gần 400 nhân khẩu.
Lịch sử hình thành làng ta đến nay cũng khoảng gần 300 năm, xưa làng ta quần cư tại khu vực Vườn Hồng, Mã Hoá, gần núi Nghè bây giờ, nhưng do khu vực đó đào giếng rất hiếm nước, không thuận tiện cho việc sinh hoạt, nên khoảng cuối thế kỷ XIX đã dịch chuyển xuống vị trí thấp hơn (vị trí hiện nay). Đến cuối thế kỷ XIX, làng ta và hai làng khác là: làng Núi và Lý Nhân có chung 1 chùa (dựng tại vị trí núi Chùa bây giờ), cả tổng Thiết Sơn (trong đó có làng ta) có chung một Văn chỉ (dựng tại vị trí gần uỷ ban nhân dân xã bây giờ, năm 1939 được rời về vị trí chợ Lai hiện nay), nhưng có riêng một đình dựng tại vị trí chợ Lai bây giờ. Đến đầu những năm 40 của thế kỷ XX, hệ thống các công trình văn hoá, tín ngưỡng của làng được xây dựng với quy mô lớn hơn gồm: Đình dựng năm 1942; chùa riêng dựng năm 1943, mở rộng chợ Lai làm năm 1942. Như thế có thể khẳng định: làng ta những năm đầu thế kỷ XX đất rộng, người không đông, nhưng với những công trình kinh tế, văn hoá nêu trên cho thấy vùng quê ta có truyền thống văn hoá đã được bồi đắp trải qua hàng mấy trăm năm.
Làng ta có 6 dòng họ lớn quần tụ, sinh sống, ba dòng họ đến sau là: Giáp, Thân, Đinh đều xác định được nguồn gốc chính xác; còn ba dòng họ không xác định được nguồn gốc xa xưa đó là: Đỗ, Tô và Hoàng; ba dòng họ này cư trú lâu đời nhất ở làng Lai (khoảng đầu thế kỷ thứ XVIII). Tính từ năm 1790 đến năm 2000 là trên 200 năm, lúc đó cụ Hoàng Cai Con đã làm cai tổng, vậy tuổi của cụ cũng khoảng 40 (luật pháp nhà nước phong kiến trước đây quy định: người làm chức vụ lý, phó trưởng phải đủ 25 tuổi; cai, phó tổng phải từ 30 – 35 tuổi trở lên), như vậy cụ Viễn tổ đến làng Lai sinh cơ lập nghiệp trước đó cũng phải mấy chục năm đã trở lên giàu có, đủ điều kiện kinh tế và tầm ảnh hưởng để cho con là cụ Hoàng Quý Cao và cháu là cụ Hoàng Cai Con lần lượt ra làm cai tổng, đủ sức cạnh tranh với các dòng họ, các làng xã khác trong tổng Thiết Sơn (tổng Thiết Sơn xưa có một số làng như: Tĩnh Lộc, Yên Liễn, Nghi Thiết, Mỏ Thổ đều có lịch sử lâu đời hơn, dân số đông hơn làng ta).
Từ những sự kiện, dẫn chứng nêu trên cho phép chúng ta khẳng định dòng họ Hoàng sinh cơ lập nghiệp ở làng Lai đến nay khoảng gần 300 năm, trải qua 9 thế hệ (cụ thể xem mục Phả hệ đồ).
-*-
TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM HÌNH ẢNH SINH HOẠT CỦA HOÀNG TỘC
VÀ NGHE NHẠC TẠI CÁC ĐƯỜNG DẪN SAU:
Hình ảnh quê hương và sinh hoạt của dòng họ:
http://www.flickr.com/photos/29029242@N05/
Khách đến chơi nhà (quan họ cổ)
http://www14.nhac.vui.vn/Music/#Play,28341
Quê hương
http://www.nhacso.net/Music/Song/Tru-Tinh/2007/08/05F63915/
Lễ giáo gia phong (hát chèo)
http://media.vovnews.vn/html/vn/audio/12/179
Làng quan họ quê tôi (quan họ)
http://media.vovnews.vn/html/vn/audio/15/129
Cảm xúc quê hương (Nhạc)
http://media.vovnews.vn/html/vn/audio/16/199
Về quê (Nhạc)
http://www3.tuoitre.com.vn/Media/Album.aspx?AlbumID=125#Song,1189