Nói về cụ Vũ Huy Quang (1828-1883) thủa trước, Cụ rất có hảo tâm với họ, nhất quyết xây dựng cơ đồ để lưu truyền hậu thế.
Lại được cả cụ cố bà, mẫu thân của cụ là người phúc hậu nhân từ cùng với nội tướng của cụ cũng là người dòng dõi thế phiệt, trâm anh, hào hoa phong nhã phú quý cho nên lúc đó cụ Quang nhờ được nhạc gia cho thêm tiền của, cụ mới thuê người đổ đất đắp nền nhà cao bảy, tám thước, cốt đề làm nhà thờ.
Khi đổ nền xong, cụ nói với cụ cố bà và hiền thê mua gỗ lưu, gỗ trai để xây cất nhà tế đường bảy gian, ròng rã hơn bốn năm mới xong (1851-1855), phí tổn hơn bốn ngàn quan.
Tháng 6 năm Ất Sửu (1865) Cụ cho sửa chữa lại 3 gian nhà từ đường (hậu cung), phí tổn hơn một ngàn quan. Đến khi hoàn thành cụ cố bà bảo cụ Quang mời cả họ, các chi họ lại họp, rồi cụ cố nói rằng: “Làm nên thì dễ, giữ được mới khó, tôi chỉ nghĩ làm sao để có thể lưu truyền mãi mãi cho con cháu đời sau. Nay tôi có bốn mẫu ruộng tư điền, tôi giao cho họ để làm của công, họ lần lượt luân phiên cày cấy. Ai cấy thì phải đóng lúa thuế trả họ để mua lễ vật cúng tổ. Còn dư thì bán lấy tiền tu bổ nhà thờ, hỏng dâu chữa đấy. Như vậy, con cháu đời sau chỉ cốt giữ gìn cho cẩn thận mà thờ tự,”
Lúc đó cả họ đều hoan hỉ và thưa rằng: “Chúng tôi tuân theo lệnh cố”, rồi cả họ bàn thưa lại rằng: họ ta có ngày nay là nhờ ân đức của tổ tiên để lại, cụ cố đã có hảo ý với họ, chúng ta há lại không có chút gì gọi là của họ? Vậy ta nên lấy số của công 300 quan cung tiến gọi là chút của họ vậy.
Cụ Quang suy đi nghĩ lại hai ba lần mãi sau mới nhận số tiền của họ. Lúc rảnh rỗi cụ ghi chép rõ ràng thành tập nhan đề VŨ THỊ GIA PHẢ. Trong gia phả có ghi chép rõ ràng tường tận từ họ tên rồi ngày giỗ, nơi phần mộ cho đến húy hiệu của tổ tiên các chi, ngành, trước là để nối dõi tiền nhân, sau để lưu truyền cho con cháu khỏi quên gốc nguồn.
1. Số ruộng của họ có bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc cứ trong họ cử nhau cày cấy, để niên thu gặt xong, họ chịu thu mỗi mẫu là 300 đấu (đấu 2), lúa phải khô ráo sạch sẽ, còn như đê điều thuế má họ chịu.
2. Hàng năm, các tiết kính tế Tổ Tiên và các tiên linh nội ngoại, lễ vật các khoản, chỉ được chi độ 10 quan, rượu chỉ được 6 tiền, chứ không được mua nhiều, nếu ai thiếu mặt sẽ phải chịu phạt là 6 tiền và phải biện dầu (trầu) rượu đến tạ Tổ tiên.
3. Các lúa thuế về ruộng được bao nhiêu đem bán lấy tiền, y như số mà biện lễ, kính tế, còn thừa để lại, quây ở gian bên phải nhà Tế đường, hay là ở nơi khác cũng được, rồi hơn đóng kém bán, nếu nhà Tế đường có đổ nát chỗ nào, hoặc đồ tế khí có hư mọt thì lấy số tiền đó ra mà sữa chữa, để cho đời đời, ông Trưởng nam chỉ có phận sự giữ gìn cẩn thận, còn thừa thì tậu ruộng hay là khi đói khát, trong họ có ai nghèo túng thí lấy số lúa ấy mà cung cấp cho, rồi sau lại phải trả vào đấy cho đủ, không được ăn không.
Sổ biên tiền và lúa của họ làm thành 2 bản, giao trưởng nam 1 bản, còn 1 bản trong họ ai có công tâm thì giữ. Còn như thìa khóa cho thóc ấy, phải chọn trong họ ai là người tin cẩn thì giao cho, như khi nào bán tiêu dùng việc gì phải tường các ông Tôn trưởng trong họ, cùng lại chứng kiến. Nếu ai nhận việc gì mà xén móc của, sẽ định là tội bất hiếu.
4. Bản tộc sẽ để một mẫu ruộng làm học điều, cứ sỉ luật mà cầy cấy, chiếu thu số lúa để nuôi thầy dạy học cho các con cháu trong họ.
Trong họ nếu ai đỗ Tam-Giáp (1), Tiến Sỹ trở lên thì bản tộc sẽ trích lấy ruộng công của họ là 5 sào biếu viên ấy.
Ai đỗ Cử-nhân thì biếu 3 sào.
Ai đỗ Tú-tài thì biếu 2 sào.
Số ruộng biếu cứ ai có khoa danh tùy cao thấp, nếu chưa có ai đỗ được chức ấy, thì trong họ ai là thông văn tự mà dạy được người trong họ học tập, thì giao cho số ruộng ấy cầy cấy để cùng nhật dụng.
5. Trong họ có ai lên lão, từ 70 tuổi trở lên, mừng một đôi câu đối vóc hồng và 5 quan tiền. Trong họ, tất cả trên dưới, đến Tết Ngyên Đán, ngày mùng 3, phải tề tựu đến cả nhà ông ấy làm lễ mừng tuổi.
Ai 50 tuổi trở lên, họ mừng 3 quan tiền.
Ai đỗ Tiến-sĩ trở lên, họ mừng một bức trướng và 20 quan tiền.
Đỗ Cử-nhân mừng 1 bức trướng và 10 quan tiền.
Đỗ Tú-tài mừng 1 câu đối và 5 quan tiền.
Còn về hàng võ thì từ xuất đội, hoặc cai phó tổng thì mừng cũng như tú tài.
Ai được sắc Bá hộ hay Võ từ Chánh-Phó quản cơ trở lên thì lệ mừng như lệ mừng Cử-nhân.
Đó là tôn ti trật tự và nêu tình thân ái với nhau.
6. Lúc tế xong, các lễ vật như thủ lợn thì chia làm 2 phần:
- Một phần thì biếu những khoa mục như Tú-tài trở lên;
- Một phần thì cắt biếu từ 50 tuổi, cùng chức dịch mọi người.
Còn cánh lợn thì biếu Trưởng nam, Thủ ba thì biếu một chân giò, còn bao nhiêu thì quân phân thượng hạ, biếu họ thì có một cỗ y như tam bàn.
7. Nơi toạ thứ: chiếu tuổi mà ngồi, nếu ai là chức sắc thì ngày tế Tổ, thì ông mời dự ấy phải biện dầu rượu và 3 quan tiền, đem đến nhà thờ bái yết không cứ tuổi, được ngồi kế chỗ 50 tuổi mà ngồi.
8. Trong họ ai cò lòng báo bản mà cúng số ruộng bao nhiêu, hay là đồ tế khí phải biên vào gia phả. Đến ngày tế Tổ cắt biểu người một phần thịt giá một tiền rưỡi và 3 quả cau, để trọng tấm lòng báo bản.
9. Trong họ có con gái đi lấy chồng, phải cheo là 1 quan 2 tiền và 1 chai rượu 12 miếng dầu lễ, còn dầu lệ thì 100 miếng, anh rể chỉnh biện đến Từ đường làm lễ.
10. Trong họ đàn ông hay đàn bà quá cố, thì cả họ trên dưới đều phải đến đưa đám cho ra đến phần mộ.
Ai từ 40 tuổi trở lên thì cả họ biện xôi gà dầu rượu (giá 2 quan) đem đến nhà biếu chủ điếu lễ để trọng hiếu đạo.
11. Những ruộng cung tiến, hay ruộng ký kỵ và ruộng tậu, hay là các đồ tế khí đều phải biên vào gia phả, còn văn tự thì giao trưởng nam giữ cẩn thận.
12. Tiền và lúa công của họ nếu như có số nhiều, nếu ai cần công danh hay có sự nguy hiểm, nhà nghèo quá không có tiền cưới vợ, trong họ nhận xét thực, thì họ xuất số tiền công ấy, từ 20, 30 quan cho dến 100 hay 200 quan tùy nhà ấy, tùy việc ấy, nhiều ít mà chu cấp cho.
Việc xong thì phải trả của họ y số đó.
Còn như Trưởng nam ví như việc gia kế, hay vì theo việc học hành không phải là người du đãng, rượu chè bạc bài mà hàng ngày không đủ dùng, thì trong họ lấy số ruộng mà cấp cầy cấy hoặc 1 vụ hoặc 2 vụ, hễ đến ngày tế Tổ phải biện lễ vật y số cùng là thuế má phải trả cho đủ, còn như đong lúa thuế cho họ thì được miễn. Đó là giúp đỡ việc hiển nhiên, nếu mà là người cờ bạc rượu chè thì không có lệ cấp.
13. Ngày kính tế, người nào uống rượu quá say mà huyện hoa thất lễ, hoặc cãi cọ nhau, từ 40 tuổi trở lên thì khoản tiền phạt 1 quan 2 tiền. Chưa đến 40 tuổi thì phạt đòn 30 roi, để răn cho chừa và đều phải dầu rượu tạ Tổ.
14. Trong họ ai mong ơn làm quan to hay phẩm trọng mà có võng lọng, ngựa xe, đến yết Từ đường, ví dụ có nhiều đầy tớ hay ngựa xe cũng phải để ở ngoài chỉ được đem vào theo ít, không được cậy thế mà lên mặt cùng phụ huynh, tôn tộc, nếu trái thì phạt không tha, đó là người biết tôn kính.
15. Trong họ ai có oan ức điều gì, hoặc lăng mạ ẩu đả, trước hết phải kiếm dầu cau tường cùng ông Trưởng Tộc để ông thông báo cho cả họ biết.
Những ông Tôn-Trưởng cả họ họp lại để xử đoán phân phải, trái, nếu xử đoán mà họ không chịu, lại tường cùng Hương lý hay ra quan, nếu xử cũng như họ xử thì phạt 3 quan 6 tiền và dầu rượu tạ Tổ.
Ví dụ: Người nào có điều gì chưa tường cùng họ mà tự tiện đến quan hay Hương Lý thì cũng phải phạt như thế.
16. Trong họ ai không có con trai mà muốn ký kỵ vào họ, thì trước hết có trầu cau tường ông Trưởng Tộc và chức sắc trong họ, đến ngày tế Tổ thì mang lại 10 quan tiền và 5 sào ruộng cùng dầu rượu đến lễ Từ Đường, tường cùng cả họ các chi, rồi mới biên vào gia phả của họ.
Cứ hàng năm đến ngày kỵ thì giao ông Trưởng Nam biện dầu rượu xôi, gà, cơm canh và vàng giấy (giá 3 quan) thiết vị ở Từ Đường gian bên phải, cả họ vào làm lễ để trọng hiếu đạo.
Lại đến ngày tế Tổ cũng có tên phối hưởng.
Các vị phạt tự trong họ, đến ngày tế Tổ hay là Rằm tháng 7, cả họ chỉnh biện công tiền 3 quan giao vào chùa cho ông Thủ-tự để biện lễ vật và làm sớ tên các vị ấy.
17. Trong họ hoặc có ai nghèo thiếu quá, bản tộc cũng cùng chu cấp, chớ để cho người ấy phải ly tán, đó là giữ gìn lấy nhau.
18. Bản tộc định lệ ai muốn vọng cho cháu ngoại thì 2 đồng bạc, rượu 1chai, dầu cau 100 miếng ngồi ở dưới 4 bàn (bàn tư) theo tuổi. Vào cho con nuôi 1 đồng, còn nội tộc thì 0đ50 thôi, dầu rượu y lệ.
(Lệ này làm từ năm Canh Thân ngày 15 tháng 8)
29/9/1860
------------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú (Đặng Tiến Dũng sưu tầm):
(1) Thời nhà Tống, khoa cử chia ra làm 5 giáp. Những người đỗ ở giáp thứ 5 gọi là đồng tiến sĩ xuất thân. Tới thời Minh-Thanh mới chia thành 3 giáp và những người đỗ ở giáp thứ 3 gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.
Đồng tiến sĩ xuất thân (chữ Nho: 同進士出身) là một loại danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ trong hệ thống thi cử Nho học thời phong kiến tại Trung Quốc, Việt Nam.
Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân, đứng cuối cùng trong bảng danh dự các loại học vị tiến sĩ.
Bậc cao hơn là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (còn gọi là Hoàng giáp). Cao hơn cả là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (đứng đầu bảng là Tam khôi: Trạng nguyên (狀元), Bảng nhãn (榜眼), Thám hoa (探花))
Hoàng giáp là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời xưa. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là tiến sĩ xuất thân (tiếng Hoa 進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị tiến sĩ, trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, tức tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) nên còn gọi là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Đến nhà Nguyễn, triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là đình nguyên.
Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên. Khi bổ quan được lĩnh chức có hàm tòng thất phẩm.
Một số hoàng giáp nổi tiếng:
Một số hoàng giáp nổi tiếng
Học Vị Tiến Sĩ đầu tiên được sử dụng ở đời nhà Trần[cần dẫn nguồn]