GIA

PHẢ

TỘC

Cao

làng
Quan
Xuyên
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
Các cụ họ Cao nhà ta không thấy để lại gì nói về dòng họ. Chỉ thấy ông Cao Duy Chính kể lại là: Thủy tổ của họ Cao nhà ta là cụ Cao Đức Lập (vợ là cụ Nguyễn Thị Châm) phát tích từ làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (còn các đời trên nữa hiện nay chưa rõ?).

Xin phép được nói về lịch sử, cảnh quan của làng Quan Xuyên nơi phát tích của dòng họ:

Làng Quan Xuyên nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hưng Yên, cách thị xã Hưng Yên hơn 20km, thuộc tổng Đại Quan, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Thời Nguyễn, xã Quan Xuyên gồm ba thôn: Quan Xuyên, Lan Đình, Lan Xuyên. Từ năm 1956, thôn Lan Đình chuyển về xã Nhuế Dương, thôn Quan Xuyên thuộc xã Thành Công, Khoái Châu, Hưng Yên. Theo truyền thuyết, thôn Quan Xuyên được hình thành vào thời nhà Lý (Lý Thái Tổ 1010-1028). Thời gian này, triều đình khuyến khích các binh lính và nhân dân khai khẩn đất hoang, lập làng ấp mới. Những cư dân đầu tiên theo sông Hồng về đến bãi ven sông, thấy đất đai phì nhiêu, lại tiện sông ngòi, đã khai khẩn đất đai, lập làng và đặt tên làng là Quan Xuyên (cửa sông). Quan Xuyên là một trong 72 làng ven dọc thờ Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân làm Đức Thành Hoàng. Làng có nét đặc trưng của một làng truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ với “cây đa, giếng nước, sân đình”.

Di tích của làng:

Trong làng gồm có một quần thể di tích lịch sử - văn hoá phong phú như: Đình Quan Xuyên, miếu Thượng thờ Tam vị Thượng đẳng Thần Chử Đồng Tử và phu nhân, miếu Trung thờ Linh ứng Đại vương Phạm Công Nghi, miếu Hạ thờ Thành hoàng làng Quang Chiếu Đại vương Vũ Quang Chiếu, chùa Quan Xuyên, nhà sắc, văn chỉ Quan Xuyên, lăng mộ Vũ Quang Chiếu...

Danh nhân của làng:

Vũ Quang Chiếu và Phạm Công Nghi là bạn đồng liêu, Vũ Quang Chiếu quê làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên còn Phạm Công Nghi quê ở Vĩnh Niêm, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, Hải Dương. Hai ông kết nghĩa là anh em và cũng là những công hầu, khanh tướng có công phụ giúp nhà Lê. Sau khi mất, Phạm Công Nghi được truy phong làm Thái Bảo Nghi Công, Linh ứng Đại vương, Vũ Quang Chiếu làm Thái Phó, Quang Chiếu Đại vương, cả hai đều là “Trung đẳng thần”. Đời sau được phong làm Thượng đẳng thần.

Lễ hội của làng:

Hàng năm từ ngày mồng 9 đến ngày 16 tháng Hai âm lịch dân làng tổ chức lễ hội truyền thống Đình Quan Xuyên. Sau này, vào năm 1938 cụ Thông phán Hưng Yên là cụ Cao Văn Linh (người làng Quan Xuyên) đã quy định lại lịch tổ chức lễ hội vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tức ba năm tổ chức một lần. Lễ hội Đình Quan Xuyên mang đặc trưng chung của lễ hội vùng đồng bằng Bắc Bộ gồm hai phần quan trọng là Lễ và Hội.

Đường về làng Quan Xuyên:

Đường về làng có rất nhiều lối đi, đi đường thủy, đường quốc lộ, đường đê, đường liên tỉnh… Ở đây chỉ nói về một số lối về làng thuận tiện nhất:

Đường ô tô từ Hà Nội về đến làng Quan Xuyên có cự ly khoảng 55 km, cụ thể như sau:

Từ Hà Nội (qua cầu Chương Dương hoặc cầu Vĩnh Tuy hoặc cầu Thanh Trì) để đến Quốc lộ 5 (hướng đi Hải Phòng). Cách Hà Nội khoảng 30 km sẽ đến ngã ba Phố Nối (Thị trấn Bần Yên Nhân) rẽ phải vào đường 39.

Từ ngã ba Phố Nối theo đường 39 đi khoảng 15 km là đến ngã ba Bô Thời.

Đến ngã ba Bô Thời thì rẽ phải, đi khoảng 03 km thì đến hai ngã ba gần nhau (cách nhau khoảng 60 mét). Đến đây có 02 lối về làng:

a) Lối thứ nhất: Đến ngã ba đầu tiên rẽ ngay sang trái theo đường 205 đi khoảng 6,5 km lại đến hai ngã ba gần nhau (cách nhau khoảng 30 mét). Rẽ về phía bên phải của ngã ba đầu. Đi khoảng 01 km nữa là đến con đường rẽ phải vào làng Quan Xuyên (ở chỗ này nhìn sang phải thấy có một nhà thờ đạo). Đi theo đường rẽ thì thấy Trường Tiểu học xã Thành Công ở bên trái. Men theo một cạnh của ao nước trước cửa Nhà thờ là đến đường qua nghĩa trang của làng Quan Xuyên (mộ các cụ Họ Cao đặt ở nghĩa trang này). Đi tiếp là vào đến cổng làng Quan Xuyên.

b) Lối thứ hai: Bỏ qua ngã ba thứ nhất mà đến ngã ba thứ 2 mới rẽ trái theo đường 204 (đường rẽ phải là về huyện lỵ Khoái Châu). Cứ đi thẳng đường 204 khoảng 3,5 km là gặp đê Sông Hồng. Đến đường đê thì rẽ trái theo đường 195 đi tiếp khoảng 3,5 km nữa là về đến làng Quan Xuyên. Đầu làng có biển đề Đình làng Quan Xuyên.

Đi đường ô tô từ Ninh Bình về đến làng Quan Xuyên khoảng 80 km, cụ thể như sau:

Từ Thành phố Ninh Bình theo Quốc lộ số 1 (hướng đi Hà Nội) đến Thị xã Đồng Văn (cách Ninh Bình khoảng 50 km) rẽ phải đi theo đường 39 (qua cầu Yên Lệnh) đi qua Thành phố Hưng Yên (vẫn theo đường 39) sẽ gặp ngã ba đường 39 và đường 205 lần thứ nhất (đường 205 lúc này ở bên phải) không rẽ mà đi thẳng khoảng 200m nữa sẽ gặp ngã ba đường 39 và đường 205 lần thứ 2 (lúc này đường 205 ở bên trái) thì rẽ trái theo đường này (từ thị trấn Đồng Văn đến ngã ba này khoảng 22 km). Theo đường 205 đi khoảng 08 km nữa gặp một ngã tư. Đi thẳng qua ngã tư khoảng 01 km nữa là đến đường rẽ phải vào làng Quan Xuyên (đứng trên đường nhìn sang phải thấy có một nhà thờ đạo). Trên đường vào làng có Trường Tiểu học xã Thành Công ở bên trái đường. Men theo một cạnh ao nước trước cửa Nhà thờ là đến đường đi qua nghĩa trang làng Quan Xuyên (mộ các cụ Họ Cao đặt ở nghĩa trang này). Đi tiếp là vào đến cổng làng Quan Xuyên.

Đi đường thủy từ Hà Nội về làng Quan Xuyên như sau:

Từ Hà Nội đi ca nô xuôi theo Sông Hồng về Khoái Châu. Hiện nay đường này thường dùng cho các đoàn đi du lịch ven Sông Hồng. Cách đi như sau: Đến bến phà tại số 42 Đường Chương Dương Độ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội mua vé ca nô qua Khoái Châu về bến phà Yên Lệnh. Đi du lịch theo tuyến này thật thú vị, không khí trong lành, nhìn cảnh 2 bên bờ thật mát mắt. Trên đường đi lữ khách được đưa lên thăm đền Chủ Đồng Tử bên sông thắp hương vãng cảnh, thư thái vô cùng. Tuyến du lịch này hiện nay mỗi ngày có một chuyến xuất phát từ bến Chương Dương xuôi đến bến phà Yên Lệnh rồi quay về Hà Nội trong ngày.

Họ Cao làng Quan Xuyên:

1. Đời thứ nhất:

Tại làng Quan Xuyên, Thủy tổ Cao Đức Lập xây dựng gia đình với cụ Nguyễn Thị Châm sinh ra được hai người con là: Cụ Cao Đức Liêm và cụ Cao Đức Nghiên.

2. Đời thứ hai:

2.1. Cụ Cao Đức Liêm xây dựng gia đình với cụ Nguyễn Thị Hoán sinh được 05 người con (ba trai và hai gái) là: Bà Cao Thị Ngân, ông Cao Duy Chinh, ông Cao Duy Long, ông Cao Duy Tứ và bà Cao Thị Tý.

2.2. Về Cụ Cao Đức Nghiên, hiện chưa có tư liệu gì ?

3. Đời thứ ba:

3.1. Bà Cao Thị Ngân là con gái cả, lập gia đình với ông Lê Văn Xiển. Ông, bà sinh được 04 người con là: 1) ông Lê Văn Chĩnh; 2) Bà Lê Thị An, chồng là Lê Văn Thúc, ông bà sinh được 02 người con là Lê Thị Chúc và Lê Mai Khang. 3) Bà Lê Thị Ấm; 4) Ông Lê Ngọc Thanh lấy vợ thứ nhất là bà Trần Thị Lịch, ông bà sinh được 02 người con là Lê Văn Lãng và anh Lê Văn Hồng (nguyên là cán bộ giảng dạy Trường Đại học Xây dựng Hà Nội); Lấy bà vợ thứ 2 là Lê Thị Hằng, ông bà sinh thêm được 8 người con (chi tiết xin xem thêm ở phả hệ đồ của Bà Cao Thị Ngân).

3.2. Ông Cao Duy Chinh xây dựng gia đình với bà Lê Thị Bảo (người cùng làng Quan Xuyên) sinh được 4 người con là: 1) Ông Cao Hữu Đồng. 2) ông Cao Hữu Bộ. 3) Ông Cao Hữu Mễ. 4) Bà Cao Thị Chí. Không lâu sau, bà Lê Thị Bảo mắc bệnh hiểm nghèo, mất sớm, ông Cao Duy Chinh lúc ấy đang làm xếp ga đường sắt ở Ga Cát Đằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã đi bước nữa với bà Phạm Thị Phụng (quê ở làng La Xuyên, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) sinh thêm được 2 người con trai là ông Cao Duy Chính và Cao Duy Chung (đây là đời thứ 4).

Trong chiến tranh chống thực dân Pháp các con của ông Cao Duy Chinh đi tản cư, phiêu bạt nhiều nơi. Người ngược Lạng Sơn, người xuôi Thanh Hóa. Hòa bình lập lại (1955) người anh cả Cao Hữu Đồng về sống ở thị xã Bắc Giang, mấy anh em (Cao Hữu Bộ, Cao Hữu Mễ, Cao Duy Chính) trở về thị xã Ninh Bình, bà Cao Thị Chí vẫn ở Ý Yên, Nam Định, ông Cao Duy Chung dạy học ở Móng Cái, Quảng Ninh.

Khi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xảy ra, các gia đình lại phải sơ tán khỏi thành phố, thị xã để tránh bom, đạn. Sau hiệp định Pari, hòa bình được lập lại ở Miền Bắc (1972) mọi nhà lại về sinh sống ở nơi ở cũ. Ông Cao Duy Chung dạy học ở Móng Cái, Quảng Ninh sau cũng đưa gia đình về sinh sống ở thị xã Ninh Bình.

Vì vậy, hầu hết đời thứ 5 (chi nhánh Ông Cao Duy Chinh) đều được sinh ra ở Bắc Giang, Nam Định và Ninh Bình. Thế hệ này lớn lên bôn ba làm ăn, sinh sống ở nhiều tỉnh, thành trên mọi miền đất nước cũng như ở nước ngoài.

Đời thứ 6 của dòng họ sinh ra và lớn lên được hưởng phúc lộc của tổ tiên, được chăm sóc, giáo dục chu đáo nên hầu hết đều ngoan ngoãn, học tập tốt. Nhiều cháu đã tốt nghiệp đại học, cao học ở các trường đại học danh tiếng ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Nhiều cháu đã lập gia đình, sinh con (đây là đời thứ 7).

Các cháu đời thứ 7 đã phát huy được truyền thống hiếu học và học giỏi. Nhiều cháu đã thi được vào học ở các trường chuyên lớp chọn (như Trường chuyên Đại học Quốc gia, Trường Amtesdam Hà Nội…).

Như vậy, tính từ đời Thủy tổ Cao Đức Lập đến nay, họ Cao làng Quan Xuyên chi nhánh nhà ông Cao Duy Chinh đã có đến đời thứ 7.

3.3. Ông Cao Duy Long xây dựng gia đình với có 2 bà: Bà vợ cả là Lê Thị Đằng (cùng quê), bà không có con với ông. Bà vợ thứ hai là Bùi Thị Dĩnh, quê ở xã Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, ông bà sinh được 5 người con là: Cao Duy Nghệ, Cao Duy Phi, Cao Duy Loan, Cao Thị Luận và Cao Thị Qui. Hiện tại các con cháu của ông bà đều làm ăn, sinh sống tại Thành phố Nam Định.

3.4. Về Ông Cao Duy Tứ: Khi ông đang học năm thứ 2 (trường Thành Chung - Nam Định) thì thi vào làm việc ngành đường sắt. Từ năm 1914-1934 ông làm việc ở các ga lẻ từ Thường Tín đến Hà Tĩnh. Sau đó, ông làm xếp ga Lạng Sơn cho đến năm 1934 rồi nghỉ hưu đưa gia đình về sinh sống ở thị xã Thanh Hoá. Năm 1954 ông đưa gia đình và một số người con vào miền Nam sinh sống. Ông có 2 người vợ (hai bà là chị em ruột) quê ở xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Với bà vợ cả là Từ Thị Giần, ông bà sinh được 05 người con là: Cao Thiên Tích, Cao Thị Sơn, Cao Thị Hợp, Cao Thị Hòa, Cao Thông Minh. Với bà vợ hai là Từ Thị Sâm, ông bà sinh được 01 người con gái là Cao Thị Hiền. Các con của ông Cao Duy Tứ hiện đang sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh và ở nước ngoài.

3.5. Bà Cao Thị Tý là con gái út, tên thường gọi Cựu Bảo sau gọi chệnh là Cựu Biểu (vì có người chị dâu tên là Bảo) Bà xây dựng gia đình với ông Lê Quang Bảo người cùng quê. Ông bà có 3 người con là: 1) Lê Thị An; 2) Lê Thị Song; 3) Lê Thị Mây. Chú Quí ở làng Quan Xuyên (hiện là trưởng Công an xã là gia đình mà khi về làng hay vào thăm hỏi) gọi bà Cao Thị Tý là bà ngoại. Con cháu Cụ Tý đang sinh sống chủ yếu tại hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương.

Chi tiết từng cá nhân các đời sau đều được ghi rõ trên phả hệ đồ, đề nghị mọi người vào tra cứu.

Về phần mộ của các cụ Họ Cao.

Phần mộ của Thủy tổ Cao Đức Lập và cụ bà Nguyễn Thị Châm; mộ cụ Cao Đức Liêm; mộ bà Cao Thị Ngân hiện chưa rõ ở đâu?

Hiện nay, ở nghĩa trang làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên còn phần mộ cụ bà Nguyễn Thị Hoán (vợ cụ Cao Đức Liêm) mộ ông Cao Duy Chinh, mộ bà Lê Thị Bảo (vợ cả ông Chinh) mộ ông Cao Duy Long và mộ bà Cao Thị Tý. Phần tro cốt của ông Cao Duy Tứ được đưa vào thờ cúng tại chùa Vĩnh Nghiêm - TP Hồ Chí Minh.

Bản ghi này được cập nhật lúc 09h00 ngày 07/01/2013.
Gia Phả Cao ở làng Quan Xuyên
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Cao ở làng Quan Xuyên .
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Cao ở làng Quan Xuyên
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.