Hiền khảo xử sĩ Phùng Gia công huý Ba, cải huý Nghĩa cẩn phủ quân.
Sinh năm Quý Sửu (Tự Đức thứ 6 – 1853) ngày 18 (Canh Dần) tháng 8 (Tân Dậu), giờ Bính Tuất. Mất năm Đinh Hợi (Đồng Khánh) ngày 23 tháng 5 giờ Tuất thọ 35 tuổi (1888). Lấy 2 bà sinh bốn con trai.
Tổ khảo là con trai thứ ba Lại mục công (Danh Ph¬ương) đến xã Đông Khê n¬ương nhờ cửa họ Hà. Làng đặt ngôi thứ đ¬ược dự vào việc làng.
Bà vợ cả sinh ra Gia Thiện và Gia Đạt.
Vợ lẽ ng¬ười xã Ph¬ương Nại sinh ra Gia Đạo và Gia Ngạc.
Theo vui nơi đất lành vậy.
Tổ khảo (Gia Ba tức Phùng Quang Nghĩa) gan dạ, thao l¬ược có chí lớn nhìn xa, trông rộng, rèn việc văn võ, rộng việc thâm giao. Đời vua Tự Đức, ngài vào kinh đô xin làm Lại mục chẳng đ¬ược, đến năm Nhâm Ngọ, len lỏi vào rừng rậm lâu chẳng đạt, sinh ra bệnh tìm thầy chạy chữa. Như¬ng vì nhà nghèo, bệnh nặng, lấy gì cơm cháo thuốc thang, chẳng còn mong mang việc đức để giúp đời đư¬ợc nữa. Đến năm Đinh Hợi (Đồng Khánh) (1888) ngày 21 sang ngày 22 tháng 5 giờ Tuất thì ngài mất. Thọ 35 tuổi (đến năm 2003 đ¬ược 105 tuổi).
Hiền tỷ Phùng công chính thất Hà Thị huý Tùng hiệu Diệu Trí phu nhân sinh năm Nhâm Tý (1852) (Đến năm 2003 đư¬ợc 151 tuổi – Mỹ chú) (Tự Đức thứ năm), giờ Hợi, ngày 6 tháng giêng. Mất năm Bính Dần (Bảo Đại nguyên niên), giờ Mão ngày 25 tháng 11, h¬ởng thọ 75 tuổi (1926). Sinh hai con trai: Thiện, Đạt.
Tổ tỷ là con gái cả cụ Chánh cửu phẩm cai Tổng Hà công huý Hệ. Vợ cả cụ Hệ là con gái quan tri huyện Quảng Yên, sinh ra ba gái, một trai tr-ưởng thành. Duy tổ tỉ ta cùng cậu ta (em trai ruột) là cửu phẩm văn giai Hà Văn Nho mà thôi. Lúc ấy tổ nội (cụ Lại Ph¬ương) làm Lại mục, tổ ngoại (cụ Hà Thệ Hệ – Mỹ chú) làm cai tổng xứng đáng thông gia. Tổ tỷ nói: Vì mẹ mất sớm, em còn nhỏ (chỉ cụ Nho – Mỹ chú) chẳng muốn lấy chồng xa, cha ta bèn đổi theo nhà vợ. Ngài hiền hậu, giầu lòng giúp ng¬ười, thông minh, mẫn cán, hiểu rộng. Ra ở riêng hai năm thì tổ khảo mất (Tổ khảo là cụ Nghĩa – Mỹ chú). Một mình mẹ (bà Tùng) dỗ dành con mà dựng nghiệp.
Đến năm ất Mùi (Thành Thái), cùng cậu ta hợp sản dựng hàn lâm sở, cúng ruộng mỗi ngư¬ời năm sào cộng 1 mẫu tại chùa làng (chùa Nhệch). Nay trong xã đổi ruộng chùa. Sau 4 bờ ruộng có đá sả. Nói rằng: cúng siêu độ hư¬ơng tiên (tổ tiên trong lòng) trên ba tầng mây. Nên năm Tân Sửu (Thành Thái), truy niệm tổ ngoại (Quảng Yên tri huyện phu nhân) làm lễ ở xã Tr¬ường Yên tại nhà thờ họ Dư¬ơng tu tạo lại ở đó. Tậu 4 sào ruộng riêng giao cho trư¬ởng họ Nguyên chánh cai Đăng sĩ tá lang Dư¬ơng Văn Cầu cày cấy để sau hư¬ơng khói (giỗ phu nhân vào ngày 5 tháng 9) (Tức vợ cả cụ Hệ – Mỹ chú). Năm Nhâm Tuất làm lễ mừng thọ 71 tuổi (thời Khải Định). Đến năm Bính Dần (Bảo Đại Nguyên Niên) (1926) giờ Mão, ngày 25 tháng 11 thì ngài mất. Hưởng thọ 75 tuổi (tức bà Tùng).
Tỷ Phùng công thứ thất Đào Thị huý Lự, hiệu Diệu Toàn, sinh năm Canh Tuất (1850) (Tự Đức thứ tư¬). Mất thời vua Duy Tân, ngày 22 tháng giêng, không rõ năm nào. Quê ng¬ười xã Ph¬ương Nại, huyện Yên Mô. Lời truyền rằng: nhân bất đắc chí về nhân duyên đi làm thợ gặt. Mẹ ta (bà Tùng) thấy sắc đẹp lại khoẻ mạnh hơn trai, nên c¬ưới cho cha ta làm thiếp. Sinh ra Gia Đạo, Gia Ngạc.
|