GIA

PHẢ

TỘC


Thế
Phái
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
LÀNG PHÚ LƯƠNG
Ông Thủy Tổ họ Lê chúng ta cùng với 7 Ông Thủy Tổ bảy họ, từ ngoài Bắc vào sáng lập làng Phú Lương, Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên vào đời Chúa Nguyễn Hoàng.8 Họ: Lê, Phan Đình, Phan Cảnh, Phan Văn, Phan Tình, Trần, Nguyễn và Quách.Sau Họ Phan Tình không có hậu duệ, còn lại 7 chánh tộc.Về phần dân số, Họ Lê chiếm hơn phần nửa dân số của Làng.
Dưới thời triều Nguyễn, làng Phú Lương có tiếng là ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
VĂN: Thi đổ Thủ khoa Tiến sĩ, làm quan đến Nhất phẩm: VĂN MINH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ.
VÕ: MÃ ĐÁO THÀNH CÔNG, làm quan đến nhất phẩm trọng trấn Gia Định thành.
Con trai làm phò mã của vua Minh Mạng, con gái làm Hoàng Thái hậu.
HỌ LÊ
Ông Thủy Tổ sinh ra 4 người con trai chia làm 4 nhánh:Nhánh Văn ( Lê Văn...)Nhánh Công ( Lê Công...)Nhánh Thế ( Lê Thế...)Nhánh Sỹ ( Lế Sỹ...)Họ có 11 ông TRƯỠNG, 1 THỦ BỘ lo về sổ bộ và quĩ họ, 1 ĐẦU XÂU với 10 dân tân trục để cho ông Trưỡng sai khiến trong những ngày Kỵ ngà Lễ.Về chức vụ Tộc Trưỡng, Họ chỉ bằng vào niên xĩ. Một người dân đến 18 tuổi, đã ăn ruộng Làng, mới ra mắt Họ, xin ghi tên vào sổ bộ của Họ.11 ông Trưỡng là 11 người đứng đầu trong sỗ bộ của Họ.Họ có dành riêng một phản ngựa cho các Tộc trưởng, một bộ trường kỷ cho 11 kế Trưởng. Một quan lớn vào Họ nếu chưa đúng tuổi sổ bộ cũng không được ngồi, vì thế mà có một mẩu chuyện buồn cười trong lịch sử họ Lê:
Ông Lê Sỹ Diệu, thuở nhỏ ở ngoài Bắc, đến gần 30 tuổi mới về Làng ghi tên vào sổ bộ của Họ. Sau ông làm quan NHỊ ĐẲNG THỊ VỆ dưới triều Vua THÀNH THÁI. Một hôm ông về HỌ nhân ngày kỵ Tổ. Ông nhận thấy trên bộ trường kỷ có nhiều người ít tuổi hơn ông, ông ngồi vào. Ông Lê Văn Ổi, một người trong nhóm "Trường kỷ" đứng dậy chỉ trích ông, ông Diệu nổi máu anh hùng trả lời một cách ngang thiêng: Tau ngồi đây thằng Ổi làm chi tau.Mấy ông Trưởng muốn giử lệ Họ, sai 10 dân tân trục kéo ông Diệu ra trói cột cờ. Ông Diệu không phản đối chịu trói một cách bình tỉnh.Tiếp đó một tên lính vào bẩm: Hoàng Đế sai chúng con đi tìm Quan Nhị Phẩm. Cả Họ thất kinh, yêu cầu quan Nhì bỏ qua chuyện vừa xảy ra. Ông Diệu trả lời: PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG, các Bác chớ ngại.Tiếp theo một tên lính vào báo cáo: HOẢNG ĐẾ bảo ai dám trói viên cận thần của Hoàng đế nói cho Hoàng đế biết, Hoàng đế sẽ chém đầu.Các Trưởng Tộc run như thằng lằn. Ông Cai Ổi lạy như rái. Ông Diệu thấy thế mới chịu cho mở trói, từ biệt các Trưởng tộc ra về.
Nhánh LÊ THẾ
Các thế hệ đầu tiên không để lại dấu tích, tên tuổi, nên thuộc vào " ĐÊM THỜI GIANG' Chỉ đến đời ngài LÊ THẾ LƯƠNG mới có gia phả ghi chép. Nên tạm gọi đời ngài LÊ THẾ LƯƠNG là " ĐỆ NHẤT THẾ '' Theo gia phả, từ thời đoạn vô lịch sử cho đến 5 đời có lịch sử, nhánh thế chúng ta chỉ một cây sinh một chồi, không tuyệt chủng cũng là một điều may. Cả nhánh chỉ rút gọn trong một tiểu gia đình một cha, một con. Dân số rất ít. Trong thời gian đó, nhánh Lê Văn, nhánh Lê Công sinh nở rất mau chóng, đân số gấp 5 lần nhánh Lê Sĩ, gấp 10 lần nhánh Lê Thế. Nhánh Lê Thế không ai lên bậc trưởng họ. Đến đệ lục thế, Ông Lê Thế Phát ra đời, mở ra một thời kì vẻ vang cho nhánh Thế họ Lê.
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP ÔNG LÊ THẾ PHÁT( Tự là: Lê Văn Phú )
Như đã nói ở trên, ông Lê Thế Phát mở đầu một kỳ huy hoàng cho nhánh LÊ THẾ chúng ta, con cháu nên biết thân thế và sự nghiệp Ông.Ông là một thanh niên hiếu học, sống vào thời loạn ông đi tòng quân dưới cờ Nguyễn Chúa, theo Vua Gia Long lập nhiều chiến công.Đến triều vua Minh Mạng, ông làm quan đến Nhất phẩm võ: TRÁNG DÕNG TƯỚNG QUÂNTRỤ QUỐC TẢ QUÂN ĐÔ ĐỐC
Trong thời kì độc lập, nước VIỆT NAM có 5 đạo quân:Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Tiền quân, Hậu cung.Ông là một ông tướng tư lệnh 1 trong 5 đạo quân ấy.
Ông được tước: VĨNH TRUNG NAM.Triều đình có 5 tước: CÔNG, HẦU, BÁ, TỬ, NAM. Ông được dự vào 5 tước được có tự điền. Tước NAM được 3 mẫu tự điền.Vì nhiều quân công, Vua Minh Mạng có ban cho một cong ngựa vàng đề 4 chữ MÃ ĐÁO THÀNH CÔNG, lại đem công chúa thứ 20, bà CẢM ĐỨC CÔNG CHÚA ( Nguyễn Phúc Thục Thận) gã cho con trưỡng của ông là: LÊ THẾ NGÔ. Vua bổ ông làm Tổng trấn Gia Định thành, ông là 1 trong những người kế vị Ông LÊ VĂN DUYỆT trong chức vị ấy. Ông mất tại Gia Định, chính phủ đưa linh cửu từ Gia Định về đến chính quán Làng Phú Lương .............................
Lê Văn Phú
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Văn Phú (?-1854), hiệu: Lễ Trai; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam.Lê Văn Phú là người ở huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế).Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh mang quân chủ lực vượt biển ra đánh chiếm Phú Xuân năm 1801, Lê Văn Phú xin theo [1], được sung vào đội Thượng Trà.Năm 1813 dưới triều Gia Long (tức Nguyễn Phúc Ánh), ông được thăng làm Chánh đội trưởng suất đội đội Thị Trà.Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), thăng ông lên Cai đội, rồi lần lượt trải đến chức Vệ úy, Chưởng vệ.Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), thăng ông làm Thống chế doanh Thần Cơ, được dự vào đình nghị.Tháng 2 (âm lịch) năm 1942, sung ông làm Tham tán đại thần, lãnh quyền Tổng đốc Định Biên (tức Gia Định và Biên Hòa), đem binh thuyền vào Gia Định. Sang tháng 4 (âm lịch), ông hội quân với Tổng thống Lê Văn Đức đi đánh quân Xiêm và quân nổi dậy ở núi Tượng(nay thuộc Tri Tôn, An Giang). Thua trận, đối phương bỏ chạy, hai ông mang quân truy đuổi đến tận biên giới của Hà Tiên, rồi mới về lạiAn Giang. Việc báo lên, nhà vua thưởng Lê Văn Phú một quân công kỷ lục.Năm 1845, cử ông làm Đề đốc Gia Định, nhưng chưa bao lâu, lại cho ông làm Tổng đốc Định Biên, rồi làm Tổng thống tiểu bộ quân vụ đại thần để hiệp cùng các tướng mang quân sang Trấn Tây (Chân Lạp). Đến tháng 6 (âm lịch) năm này, thành Nam Vang thất thủ trước sự tấn công của quân Việt, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người...[2]. Xét công các tướng, ông được nhà vua thưởng cho một cấp trác dị (có nghĩa là “tài năng cao, khác thường”), và phong tước Vĩnh Trung nam. Sau đó, Lê Văn Phú nhận lệnh trở về Huế. Tại triều, nhà vua tự tay rót rượu mời ông, và ban cho chén ngọc và tượng ngựa bằng vàng.Năm 1847, gặp kỳ đại kế [3], thăng ông làm Thủy sư Đô thống ở Kinh đô Huế. Tháng 7 (âm lịch) cùng năm, 12 khẩu súng đồng ghi công bình định Trấn Tây (Chân Lạp) đã được đúc xong, tên ông được khắc ở cỗ súng “Thần uy phục viễn”, và trên bia đá dựng ở Vũ Miếu [4]Tự Đức năm thứ 1 (1848), đổi Lê Văn Phú làm Tổng đốc Hà Ninh (tức Hà Nội và Ninh Bình), rồi thăng làm Tả quân Đô thống phủ Đô thống.Năm 1851, đổi ông làm Tổng đốc An Tĩnh (tức Nghệ An và Hà Tĩnh). Năm 1853, lại đổi ông làm Tổng đốc Định Biên (tức Gia Định và Biên Hòa), nhưng chỉ được một năm thì mất (1854).• Thương tiếc, nhà vua ban vải lụa, một ngàn quan tiền cho gia đình ông, và cho thờ ông ở đền Hiền Lương tại Huế.( Đền Hiền Lương nhà Nguyễn, là nơi thờ các công thần của nhà Nguyễn được các vua nhà Nguyễn vinh danh, từng nằm tại vị trí bên cạnh khuôn viên chùa Thiên Mụ (bên tả), đền được khởi dựng tháng 12 âm lịch năm Đinh Mùi (đầu năm 1848))
..............................
Tác phẩm
Phiên âm Hán-Việt:
Thiệu Trị nhị niên xuân nhị nguyệt nhị thập thất dạ cung tiếp phi đệ dụ điều lãnh Định Biên tổng đốc nhân nhi ngẫu thành
Kinh văn mã thượng đệ thần chương
Trọng ký Nam Kỳ địa nhất phương.
Cấp tiễn y thanh điều bệnh thể
Cánh chiêm nhật cước xúc hành trang.
Quan Trung căn bản tư đàn áp,
Tiêu tướng tài du cảm biệt hàng.
Gia Định diệc như Bình Định địa,
Hải Vân lĩnh bắc thị gia hương.
Dịch nghĩa:
Đêm 27 tháng 2 mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), kính tiếp chỉ dụ điều động tới lãnh chức Tổng đốc Định Biên, nhân đó ngẫu hứng làm thơ.
Chợt nghe chỉ dụ khẩn của nhà vua,
Giao phó cho trọng trách trấn giữ một cõi ở Nam Kỳ.
Vội sắc thuốc thang chữa cho lành bệnh,
Lại xem ngày gấp gục sắm sửa hành trang.
Quan Trung [5] là nơi đất gốc, phải lo dẹp yên,
Tiêu Hà [6] là tướng quốc tài cao, đâu dám so sánh.
Đất Gia Định cũng như đất Bình Định [7],
Phía bắc núi Hải Vân là quê hương ta.
Gia Phả Lê Thế Phái
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Lê Thế Phái.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Lê Thế Phái
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.