Gia phả họ Lê ta từ buổi nhà Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740- 1786) có ông huyện thừa Lê Đình Vỵ thuộc chi ở Hoàng Mai, dòng dõi ông Lê Tá đã chép một quyển.
Xưa cụ Lê Kinh Tế, án sát sứ hiệu Hương Đình kiếm được cuốn gia phả ấy ở Hoàng Mai. Ngài định chép nối thêm nhưng chưa kịp làm thì đã mất.
Đến đời cụ Lê Kinh Hạp là quan Quang Lộc Tự Thiếu Khanh, hiệu Xuân Đình lại trở ra Hoàng Mai và Quỳnh Đôi để đối chiếu so sánh với các chi ngoài đó rồi mới chép nối thêm.
Việc làm trên đã được Ngài thuật lại trong: "Lời dẫn giải truyện ký về ngài tiến sĩ họ Lê" đã được khắc vào bia đá đặt tại đền thờ cụ Lê Quỳnh ở Quỳnh Mai, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trong đó có đoạn viết: "... Mùa xuân năm Tân Dậu (1861) Hạp cũng đã có dịp tới đây thăm. Bấy giờ có người già làng thuộc chi họ cụ Nguyễn Xứng đưa gia phả cho tôi xem, nhưng không tìm được gốc tích. May mà sau đó có người họ Lê thuộc chi khác là Tú tài Lê Xuân Đoàn ở Quỳnh Đôi đưa gia phả ra xem thì mọi băn khoăn đều được giải quyết. So với gia phả mà nhà Hạp đang giữ được thấy không có gì khác.
Ôi( Bấy lâu nay, trong lòng Hạp vẫn mang một nỗi niềm canh cánh như một lẽ thường tình; Chim Việt đậu cành Nam, Ngựa Hồ hí vang trong gió Bắc, cây có gốc, nước có nguồn, ấy mà("
Nhưng cuốn gia phả ấy ngài làm bằng chữ Hán. Về sau nhiều người không biết chữ Hán nên cụ Tú tài hàn lâm đãi chiếu Lê Kinh Ba mới dịch ra quốc ngữ để con cháu đời sau đọc và hiểu được.
Thật sung sướng biết bao( các đấng tiền nhân của họ Lê ta đã lo xa cho con cháu đời sau như vậy đó.
Ngài Quang Lộc Lê Kinh Hạp còn mong muốn đời sau con cháu chép nối bổ sung tiếp gia phả dòng họ nên ngài dạy rằng: "Nếu chúng mình không viết lại được thì quá khứ có đẹp đẽ đến đâu cũng không sao sáng tỏ được. Nếu không viết lại được thì đời sau dù có phồn thịnh cũng mơ hồ không rõ cội nguồn".
Chính vì lẽ đó nên ban liên lạc họ Lê (Sơn An) tại Hà Nội trong những năm cuối thập kỷ 80 đã nhận thấy: Từ sau cách mạng Tháng Tám và qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ việc chép nối gia phả của dòng họ đã bị lãng quên nên đã có chủ trương viết tiếp cuốn gia phả của dòng Họ.
Và Ban liên lạc đã cử ra một ban biên soạn do ông Lê Khánh Khang làm chủ biên. Năm 1990 cuốn gia phả đã hoàn thành và in gửi cho Ban tộc biểu ở quê một cuốn, 5 chi năm cuốn để đọc và cho ý kiến bổ sung. Đến năm 1999, trong cuộc họp đầu Xuân của bà con họ Lê ở Hà Nội đã quyết nghị: tiếp tục hoàn thiện cuốn gia phả của dòng Họ cho đến năm 2000.
Việc biên soạn lần này được tổ chức chặt chẽ hơn với yêu cầu đảm bảo đúng đủ. Ban biên soạn đã đọc và tham khảo các tài liệu sau:
- Cuốn Lê Thế Ngọc phả do các gia thần là Nguyễn Hài, Trọng Viêm, Nguyễn Cang và Sung Huyền phụng chỉ vua Cảnh Hưng tức Lê Hiển Tông biên soạn bằng Hán văn, được ông Trịnh Quang Vận dịch ra tiếng Việt năm 1972. Trong cuốn gia phả viết lần này chúng tôi trích nguyên văn bài "Ngự chế Ngọc phả ký" là bài tựa đầu cuốn Ngọc phả của vua Hiển Tông Vĩnh Hoàng đế viết năm 1780, lúc ấy vua 64 tuổi và đã ở ngôi vua 41 năm(Cảnh Hưng thứ 41).
- Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (in năm Chính Hoà thứ 18 (1697) đời vua Hy Tông Chương hoàng đế do Hoàng Văn Lân dịch, nhà xuất bản khoa học xã hội ấn hành năm 1985.
- Sách "Lê Lợi con người và sự nghiệp" của Giáo sư Vũ Ngọc Khánh do nhà xuất bản Thanh hoá ấn hành 1985.
- Sách "Khỡi nghĩa Lam Sơn và phong trào đấu tranh giải phóng đất nước thế kỷ thứ 15" của giáo sư Phan Huy Lê, do nhà xuất bản xã hội ấn hành năm 1969.
1. Phần từ đời ông Lê Duy Thành đến đời ông Lê Nguyễn Lệ chủ yếu dựa trên cuốn gia phả cũ do cụ Lê Kinh Ba dịch có bổ sung thêm niên đại.
2. Phần hình thành 5 chi: Lê Kinh, Lê Sĩ, Lê Văn, Lê Khánh và Lê Doãn vừa theo gia phả cũ vừa đối chiếu với bản dịch các văn bia và bài vị (do GS Lê Kinh Duệ sưu tầm và dịch thuật) mà họ ta còn lưu giữ được để bổ sung, chép nối theo thế thứ từng dòng cho đến năm 2000 (Canh Thìn).
Trên cơ sở thế thứ các đời và theo từng dòng đã chép trong gia phả in năm 1990, lần này rà soát lại và chép tiếp những thay đổi theo thời gian của cả dòng họ.
Về dòng ngoại, lần này cũng được sưu tầm biên soạn theo nội dung sau:
+ Con gái họ Lê được ghi trong gia phả như con trai, chồng (con rể) cũng được ghi chi tiết như con dâu của họ.
+ Phần con của con gái (cháu ngoại) họ Lê cũng ghi đầy đủ như cháu nội. Chắt ngoại của họ Lê sẽ không ghi vào gia phả. Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt chắt ngoại có những thành đạt lớn đáng nêu gương để học tập thì sẽ được ghi tóm tắt.
Để tiến hành Ban liên lạc đã phân công cụ thể người phụ trách từng chi, từng dòng thu thập tài liệu, soạn thảo rồi gửi cho các chi, các dòng theo các địa phương cư trú tham gia bổ sung, sau đó mới tổng hợp và biên soạn chính thức.
Trong quá trình tiến hành không tránh khỏi một số khó khăn:
- Con cháu trong họ ngày càng đông, trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tích cực tham gia hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như xây dựng đất nước, được nhà nước thưởng nhiều huân huy chương mà ban biên soạn chưa nắm được hết.
- Theo gia phả cũ, có trường hợp ghi không đầy đủ nhất là kể từ các đời thứ 23 về trước nhưng nay khó bổ sung vì đã quá cố gần hết không còn ai để hỏi.
- Con cháu trong họ công tác và làm ăn sinh sống ở nhiều địa phương khác nhau khắp trong Nam, ngoài Bắc, ở miền xuôi, miền ngược... khoảng cách địa lý xa xôi nên việc liên lạc tìm hiểu có nhiều khó khăn trở ngại.
Tuy vậy ban biên soạn đã cố gắng hết sức mình trong việc tổng hợp, nhằm đạt yêu cầu đã đặt ra là đảm bảo đúng và đủ.
Sau khi biên soạn xong, chúng tôi đã mời các bậc cao tôn, cao niên, các vị có học hàm, học vị và đại diện các chi có mặt tại Hà Nội xem xét, chỉnh lý trước khi in ấn chính thức.
Mặc dù đã cố gắng hết sức mình nhưng sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót vì những khó khăn đã nêu ở trên. Vì vậy , khi cuốn gia phả này đến tay bà con trong họ, chúng tôi mong nhận được sự góp ý bổ sung để lần sau chép nối tiếp ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Chúng tôi cũng mong rằng trên cơ sở cuốn gia phả viết bổ sung lần này, từ nay về sau các bậc hậu duệ của dòng họ sẽ năng đọc và viết tiếp phần bổ sung các đời tiếp theo mãi mãi về sau.
Được như thế là chúng ta đã kế thừa và tiếp tục làm rạng rỡ thêm truyền thống của dòng họ. Và trong tâm khảm của mỗi một chúng ta sẽ lấy làm vinh dự tự hào về cội nguồn và truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên. Chúng ta sẽ cảm thấy như Tổ tiên vẫn ở gần bên ta và ta luôn làm đúng lời di huấn của Tổ tiên để lại.
Tổ tiên gần đó chẳng xa
Nghìn thu hương hoả phúc nhà càng vun.
Năm Canh Thìn (2000)
Ban liên lạc họ Lê tại Hà Nội.
Trưởng ban
Lê Khánh Thanh
|