Tôi đưa thông tin sưu tầm được từ web.giaphahophan.com để ai có thêm thông tin thì thông báo:
DÒNG HỌ THUỶ TỔ PHAN THỪA LÔ Ở HẢI DƯƠNG - HẢI PHÒNG
Theo tộc phả do ông Phan Đình Chiến ở Dã Viên, ngõ Cấm Hải Phòng mới gửi tới thì dòng họ này ghi nguồn gốc như sau:
"Họ Phan ta phát sinh vốn là người Trung Hoa con cháu của Tất Công Cao, tồn tại từ đời nhà Chu" Sau di chú về huyện Phan (tỉnh) nên đã lấy chữ Phan làm họ.
Cuối triều Đại Minh Đức, thiên tổ họ Phan là Phan Lệnh Công tự Phúc Tín. Ngài thi đỗ văn áp văn quan Kim Vũ, làm quan thái uý trong triều Minh. Cuối đời, triều đại Minh bị quân Thanh cướp ngôi. Ngài khởi nghĩa dấy binh diệt Thanh phù Minh, chiến đấu quyết liệt. Nhưng vận nhà Minh đã tàn, ngài thất thế nên cùng với 7 người con trai lánh sang Việt Nam đến trú tại nhà họ Đoàn xã Quán Trang, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ngài xin làm con nuôi, đổi họ Phan thành họ Đoàn để mai danh ẩn tích.
Sau khi đã thống chiếm đất Trung Hoa, để diệt trừ mọi hậu hoạ, nhà Mãn Thanh đã cho truy tìm tàn dư các phe đảng chống đối trước kia trong đó có một đạo quân sang Việt Nam để truy tìm. Năm ấy nước ta vào triều Hậu Lê, không rõ năm nào? Lúc ấy Đức Thiên Tổ Phúc Tín đã tịch thọ 90 tuổi.
Để tránh sự truy tìm của quân Mãn Thanh, 7 người con trai của ngài phải trốn chạy mỗi người thất tán một nơi, ông thì lên Sơn Tây, ông thì vào Nghệ An, Thuận Hoá. Duy cụ trưởng nam là cụ Khánh Thiện bị đau chân không chạy được, phải ở lại Quán Trang, cụ bị tịch vào ngày 30-10 năm ấy. Cụ Bà mất vào ngày 24 tháng 5 năm sau.
Khi hai cụ qua đời, con trai trưởng của cụ là đoàn lệnh Công tự Thừa Lô, hiệu Phúc An, thiên cư đến xã Phù ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, khai cơ lập nghiệp thành một hào hữu ở trong làng. Lúc đó vào khoảng đời Lê Hiến Tông (Hậu Lê) niên hiệu Cảnh Thống năm Đinh Tỵ.
Ít lâu sau, thấy tình thế đã ổn định, ngài lại đổi họ lại là họ Phan, thu nguyên dòng dõi như thế, vậy từ đường họ Phan chúng ta ở xã Phù Ủng, thờ đức tỉ Phan Thừa lô tự Phúc An là đệ nhất thuỷ tổ, cho đến khi cuốn gia phả này được biên soạn lần đầu tiên bằng hán văn thì họ Phan chúng ta đã tồn tại được khoảng 352 năm (tự Đức niên tuế thứ Mậu Thân).
Nhận thấy Tự Đức thuỷ tổ Phan Thừa Lô đệ nhất đại tổ cho đến bách thế đại phát triển thiên chi vạn nhánh, không thể ghi chép hết được cho đầy đủ. Vì vậy đến đời thứ 6 bèn chia làm 5 hệ, mỗi hệ có một gia phả ghi chép về hệ mình cho đầy đủ hơn, rõ ràng hơn. Mỗi năm ngày đại lễ hợp tộc các hệ họp lại với nhau, mục thứ, chi tiết 4 hệ ghi rõ như sau:
Nguyên do đức tổ đời thứ tư là Phan Nho sinh ra được 4 con trai
1) Phan Thế Hiền,
2) Phan Tiến Tước,
3) Phan Đức Quý,
4) Phan Trác Việt...
Đến đời thứ 6 căn cứ 4 vị nói trên chia theo 4 hệ thống thuộc con cháu dòng hệ ông Phan Đức Quý có ông Phan Trác Úc và ông Phan Sĩ Nhiệm, và thuộc hệ ông Phan Trác Việt có Phan Trác Liễu và Phan Trác Tố. Còn hệ con cháu ông Phan Kế Hiền và Phan Tiến Tước không thấy nói.
Xem qua bản tộc phả ghi ở trên, về thời gian phát tích của dòng họ Phan cũng nói là Tất Công Cao tồn tại từ đời nhà Chu, sau di chú về huyện Phan, nên lấy chữ Phan làm họ. Cứ liệu này cũng trùng hợp với truyền thuyết họ Phan sang lâu đời, mà cấu đối còn lưu lại tại nhà thờ họ Phan Văn (hay Phan Quận) thị trấn Yên Thành nói ở chương 1 mục b, nhưng thêm số tên: Cao vào sau chữ Tất công hay Tất Công là chức tước, vì ở lâu đời bị Hoa hoá, nên mới nói vốn là người Trung Hoa, chưa thấy được gốc tổ có bộ phận sang Việt Nam từ ngẫn mà chính là dân Bách Việt ở nam Trường Giang bị Hoa chiếm mà dời sang Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương.
Về thời gian ông Phan Lệnh Công tự Phúc Tín, bị thất bại trong cuộc chiến phò Minh diệt Thanh, cùng 7 người con theo đường biển chạy sang Hải Phòng đến ở Quán Trang, An Lão. Theo sử liệu thì nhà Thanh đánh nhà Minh chiếm Bắc Kinh vào năm Minh Sùng Trinh 17 (1644). Triều quan chạy về phía nam lập Minh Long Vũ làm vua đóng ở Phúc Châu Phúc Kiến) nhưng lại bị Thanh đánh năm 1647, Minh Long Vũ bị diệt vong (Việt Nam) Phúc Thái V Lê Chân Tông, các triều thần tan tác. Sau đó một vài triều quan chạy lên Quảng Tây lập Minh Vĩnh Đế làm vua, nhưng cũng bị đánh phải chạy lên Vân Nam, Miến Điện cuối cùng Minh Vĩnh Đế bị bắt và bị giết năm 1662, chấm dứt triều nhà Minh (Việt Nam: Vạn Khánh Lê Huyền Tông). Như vậy ông Phan Phúc Tín chạy sang Việt Nam vào lúc Phúc Châu thất thủ (1647). Sau 1662, Thanh cử người sang truy tìm, nên cháu Phan Thừa Lô phải lẩn tránh lên làng Phù ửng, Ân Thi Hưng Yên, và năm Cảnh Trị (không phải Cảnh Thống) đời Lê Huyền Tông vào năm Đinh Mùi (1667), không phải Đinh Tỵ. Các em ông mỗi người chạy một nơi: Tây Tựu Thăng Long, chùa Huệ Linh Kim Động, Nghệ An, Thanh Hoá, Thuận Hoá. Đời thứ 5 ở Phù ủng có Phan Trác Việt sinh năm Mậu ngọ 1702 đậu cử nhân làm tri huyện Tiên Lữ, mất năm Giáp Thân (1764).
Đến đời IX ông Phan Trác Miên có 7 con trai trong đó ông Phan Trác Lữ con trưởng dời sang tỉnh Hà Nam huyện Duy Tiên xã Đọi Sơn thôn Trung Tín. Con thứ 6 là Trác Hoàng dời sang Nam Định, nay nhà từ đường họ ở số 224 phố Hàn Thuyên, thành phố Nam Định. Con thứ 2 Phan Trác Thưởng và con thứ 7 Phan Trác Hoàng theo Nguyễn Công Trứ vào khai khẩn ở Hải Hậu (thời Minh Mệnh) (1820-1844) lập ấp làng An Lạc, tại tổng Đinh Nhất. Các dòng họ trên đều về Phù ủng nhận tổ.
Ông Phan Mạnh Danh cháu Hoàng Giáp Phan Trứ tuần phủ Thuận Khánh, ở Phù ủng cũng thuộc dòng họ này. Nói chung đến nay (1997) là đời thứ XIII - XV. Con cháu phát triển thịnh vượng.
(Viết theo tộc phả ở Hải Phòng, Nam Định, Duy Tiên, do ông Phan Tại cung cấp).
|