PHẢ KÝ
Lịch sử hình thành dòng họ
Nước có sử nhà có Phả, Sử cho chúng ta hiểu rõ sự hưng vong của đất nước, Phả để biết cội nguồn của dòng họ. Con người ai cũng có tổ tông và uống
nước phải nhớ nguồn. Tìm về cội nguồn là tìm về lai lịch ông bà thủy tổ, tổ quán của dòng họ và công lao mà tổ tiên đã vun đắp cho dòng họ.
Thực hiện việc ghi lại Gia Phả một tộc họ là việc truy nguyên nguồn gốc một tộc họ của người Việt Nam nói chung và nhất là người miền trung nói riêng thường rất khó. Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng qua các triều đại phong kiến nước ta trước đây, do những hoàn cảnh lịch sử khác nhau mà lần lượt có nhiều dòng người từ các tỉnh phía Bắc tiến dần về các vùng đất phía Nam để sinh cơ lập nghiệp. Hầu hết người di dân từ miền ngoài vào, vì một lý do nào đó đã đến miền đất mới lập nghiệp, có thể là những người đi khai hoang vùng đất mới, có thể là mgười đi lánh nạn (khi thay đổi nhà cầm quyền) hoặc là các quan lại đi trấn nhậm hay mở mang bờ cõi…, từ đó tạo nên những nơi ở, làng xóm, quê hương mới. Trong đó chỉ một số ít danh gia vọng tộc mới có thể lưu truyền được Gia Phả… còn lại đa số chỉ nghe các Cụ, Ông, Bà kể lại hoặc qua những ghi chép sơ sài, di tích, bia đá, ngôi mộ còn tồn tại...
Mỗi dòng họ đều có cội nguồn được hình thành qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, không rõ từ thuở xa xưa, Tộc Huỳnh nhà ta từ khi lập họ có Gia Phả gốc hay không? nhưng từ năm 1995-2000 đã có một bản Phả Đồ sơ bộ do Ông Huỳnh Đình Tú truy nguyên và ghi chép lại, tuy nhiên bản Phả Đồ này đã thất lạc, không rõ lý do. Qua tìm hiểu có thể do ngôi nhà của ông trong một năm lũ lụt lớn vào mùa mưa bão, nên bản Phả Đồ đã bị thất lạc.
Giờ đây, lớp con cháu đời sau lại truy nguyên, điền dã, để xây dựng bộ Gia Phả mới của dòng tộc Huỳnh tại An Long- Canh Vinh-Vân Canh-Bình Định với những chi tiết dựa vào cuốn sổ Ông Huỳnh Đình Phong và qua lời kể, ký ức của hậu duệ họ Huỳnh, bia mộ gia tộc HUỲNH, sổ sách đạo Cao Đài (gần 80% con cháu họ Huỳnh theo đạo Cao Đài, kể từ đời thứ 3) giấy tờ địa bạ còn lưu giữ, ký ức của Bác, Chú, Cô, Anh, Chị Em... Họ Huỳnh.
Vào đầu thế kỷ XX địa danh có tên : An Nhân Phủ, Tuy Viễn Huyện, Nhân Nghĩa Tổng, , Hòa Nghi Thôn, Cư Tăng Vinh Thôn, vào thời Vua Bảo Đại địa danh gọi là : Xứ An Long, Thôn (Xã) Tăng Vinh, Tổng Dương An, Phủ (Huyện) Tuy Phước, Tỉnh Bình Định, Đại Nam Trung Kỳ, vào thời Việt Nam Cộng Hòa gọi là : Ấp Bắc Tăng, Xã Phước Thành, Huyện Tuy Phước, Tĩnh Bình Định, sau năm 1975 gọi là : Thành An-Tân Vinh-Phước Vân- Nghĩa Bình (Tỉnh Bình Định và Tỉnh Quảng Ngãi nhập thành Tĩnh Nghĩa Bình, Huyện Tuy Phước và Huyện Vân Canh nhập thành huyện Phước Vân), ngày 23 tháng 09 năm 1981 được tách ra như hiện này. Từ quốc lộ 1 đia về hướng quốc lộ 19D (ngã 3 Diêu Trì đi về hướng tây khoản 6km, đến đoạn đường có giá lâm môn khởi nguồn Huyện Vân Canh, tiếp tục đi thêm một đoạn 500-600m, bên tay trái có ngã rẻ đầu đường có bảng “Chùa An Long”, tại đó là Thôn An Long-Canh Vinh-Vân Canh-Bình Định, ở đó là điểm phát tích của Họ Tộc “HUỲNH DANH”. Nơi ấy theo hướng Đông Nam là sông Hà Thanh rất gần, theo hướng Tây Bắc là nuối Hòn Bồ, sông nước hữu tình, núi non trù phú.
Trong dòng người di cư từ miền ngoài vào có Ông họ Nguyễn (chưa xác định được, tên gì? ở địa phương nào phía Bắc?) vào khai canh, khai cơ lập nghiệp (chưa xác định được ở thời kỳ nào) tại làng An Hòa gần cầu Bà Di, tính đến nay trải qua được sáu đời, những gì biết được về ông thật có giới hạn, cả những điều cơ bản về cuộc của đời ông cũng còn nhiều tồn nghi. Chỉ biết rằng ông gốc Họ Nguyễn người miền Bắc Trung Bộ (từ Nghệ An trở vào), có thể thuộc tầng lớp quan lại nhà Tây Sơn, hoặc người dân di cư lập nghiệp ...; ngoài ra, còn vô số điều chúng ta muốn biết về Ông nhưng do khoảng cách thời gian, không gian thay đổi trong hoàn cảnh lịch sử nhiều biến động nên sự hiểu biết của lớp hậu sinh chúng ta đành dừng lại ở một chừng mực nào đó. (có thể Ông đi lánh nạn và cải từ họ NGUYỄN sang Họ HUỲNH).
Không một tư liệu hay dấu vết nào nói về Bà Tổ. Chỉ biết rằng, bà thuộc dòng dõi Họ Huỳnh tại Bình Long- Canh Vinh- Vân Canh-Bình Định, coi như Bà Tổ đường của lớp hậu duệ Tộc Huỳnh chúng ta. Hiện nay Mộ của Bà vẫn còn tồn tại ở Bình Long (gần sông ngang)
Ông Họ Nguyễn di cư từ miền ngoài vào lập nghiệp tại An Hòa gần Cầu Bà Di kết duyên cùng Bà Họ Huỳnh cư ngự tại Bình Long, hai Ông Bà sinh được một số người con và cải theo họ "HUỲNH" (có thể là đi lánh nạn khi thay đổi nhà cầm quyền, nên các con phải cải họ lấy theo họ HUỲNH của Mẹ) trong đó có các người con Trai như sau ( gọi là đời thứ 2)
1. Huỳnh Tường => Hiện CHI 1 này cư ngụ Hòa Nghi – Nhơn Hòa - An Nhơn Huỳnh Khay -> Huỳnh Cát, Huỳnh Kèn -> Huỳnh Ngô, Huỳnh Tư -> Huỳnh Tân, Huỳnh Hữu Bạc (ở KomTum) Huỳnh Hữu Chì, Huỳnh Hữu Đồng...
2. Huỳnh Tự => Hiện CHI 2 này cư ngụ Thanh Minh - Quan Hiển – Vân Canh Huỳnh Hoa -> Huỳnh Nghệ (6 đỏ), Huỳnh Nhự (7 Đen) -> Huỳnh Thúc Ánh, Huỳnh Ngọc Giảng -> Huỳnh Văn Khoa, Huỳnh Văn Ngọc, Huỳnh Long Sơn...
3. Huỳnh Danh => Hiện CHI 3 này cư ngụ An Long – Canh Vinh – Vân Canh Huỳnh Kỳ, Huỳnh Lý, Huỳnh Liên -> Huỳnh Cẩn, Huỳnh Cảnh, Huỳnh Quang-> Huỳnh Canh, Huỳnh Văn Minh ...( toàn bộ cuốn Gia Phả là con cháu của Chi Huỳnh Danh).
4. Huỳnh Đường=> Hiện CHI 4 này cư ngụ An Long – Canh Vinh - Vân Canh Huỳnh Đường -> Huỳnh Liến ->, Huỳnh Mão, Huỳnh Tý, Huỳnh Đạo, Hùyh Đắc Trung, ->Huỳnh Phi Long, Huỳnh Đình Vân -> Huỳnh Văn Ngọc, Huỳnh Văn Ngà, Huỳnh Đình Hổ, Huỳnh Ngọc Lang...
CHI 3 Tộc Huỳnh tại An Long – Canh Vinh – Vân Canh - Bình Định thuộc gia phả này bắt đầu từ Ông Huỳnh Danh kết duyên với Bà Đào Thị Lượt (là trưởng nữ Ông Cả Hằng, thuộc nhánh nhà Ông Phó Hậu, là gia tộc giàu có trong làng), vì vậy con cháu Huỳnh Tộc các đời sau này được hưởng phước hồng ân của Bà để lại.
Bà Đào Thị Lượt hạ sinh cho Tộc Huỳnh được 5 người con thì Bà mất sớm,. Sau này Ông Huỳnh Danh đã tái hôn với người vợ thứ 2 là Bà Trần Thị Nghiệp và hạ sinh thêm 2 người con nữa (gọi là đời thứ 3).
1. Huỳnh Thị Cam (Bà Cố của Ông Ngọc Đổ, Ông Đào, Ông Văn...)
2. Huỳnh Thị Bưởi (Bà làm dâu họ Phạm, có cháu là Phạm Ni, Phạm Hộ)
3. Huỳnh Kỳ (cư ngụ An Long – Canh Vinh- Vân Canh)
4. Huỳnh Chước(Ông 5 lớn) hiện có ngôi mộ tại vườn Ông Hổ
5. Huỳnh Lý cư ngụ An Hòa – An Nhơn (Bà 7 Lá gọi là Ông Nội)
6. Huỳnh Liên Nam Tăng–Canh Vinh (nhánh Ông 3 Trung, 7 Phòng)
7. Huỳnh Thị Khói(chồng tên là Nguyễn Mãi, có con Gái là Nguyễn Thị Rộc và Cháu Ngoại là Ông 3 Dụng, Em cùng cha khác mẹ là Bà Ruộng là Bà 8 Hồ).
Trải qua gần hai trăm năm từ ngày ông Tổ vào Miền Trung khai cơ lập nghiệp, họ Huỳnh nhà ta trải qua được 7 đời. Cuộc đời thăng trầm, họ HUỲNH nhà ta cũng có lúc thịnh, lúc suy. Nhờ hồng phúc Tổ tiên, con cháu họ HUỲNH ngày nay sinh sôi nẩy nở ngày càng đông đảo, dù chưa giàu sang nhưng cũng đủ cơm no áo ấm và cố gắng tiến lên cuộc sống thịnh vượng.
Nhìn vào Gia Phả họ Huỳnh nhà ta, trải qua 7 đời liên tục, chưa có ai làm nên công trạng gì lớn lao, lưu danh sử sách, nhưng nói ra điều này không phải để chúng ta tự ti, mặc cảm về tổ tiên dòng họ mà để con cháu hăng hái tiến lên làm rạng danh dòng tộc. Rõ ràng, việc dựng bộ Gia Phả này không phải là để khoe khoan, tôn vinh dòng họ, mà cốt là để con cháu biết đâu là nguồn cội, ngày tháng giỗ chạp ông bà… Mỗi người họ Huỳnh chúng ta biết nhìn vào đó mà suy xét, chọn điều hay lẽ phải, giữ nếp gia phong.
Tuy không lập nên công trạng lưu danh sử sách, nhưng Họ Huỳnh nhà ta cũng được dân làng tôn kính, nể phục bởi đức độ hành đạo, trời phật ấn chứng, kể từ đời thứ 4 gần như 80% con cháu Huỳnh Tộc nhập môn và theo tôn giáo Cao Đài (Đại Đạo Tam Kỳ), xuất phát từ cơ duyên cầu thuốc chữa bệnh cho Ông Huỳnh Tuân (đời thứ 4) là con Ông Huỳnh Liên (đời thứ 3), kể từ đó tất cả Anh Em, con cháu Huỳnh Tộc nhất tâm hướng đạo, thành lập Họ Đạo Thánh Thất Trung Tâm, do Ông Giáo Hữu Ngọc Cẩn Thanh làm Đầu Họ Đạo ( tức Ông Huỳnh Cẩn đời thứ 4, con Ông Huỳnh Kỳ).
Kể từ ngày mở Đạo và thành lập Thánh Thất Trung Tâm, một số người thuộc Huỳnh Tộc được ghi nhận công lao như sau :
1. Huỳnh Tuân - Đầu tiên nhập môn và mở đạo tại Họ Đạo Trung Tâm
2. Huỳnh Cẩn - Đầu Họ Đạo đầu tiên của Họ Đạo (Ngọc Cẩn Thanh)
3. Huỳnh Canh – Đầu Họ Đạo thứ 2 của Họ Đạo (Ngọc Canh Thanh)
4. Huỳnh Văn Minh – Đầu Họ Đạo thứ 5 của Họ Đạo (Thái Minh Thanh)
Có sự việc kể ra đây để con cháu sau này biết được Ông Bà Tổ Tiên đời trước hành Đạo đã được ấn chứng như thế nào?. Khu đất gò Ông Tề trước đây là khu gò chôn mồ mả rất nhiều, vào khoản năm 1986-1987, chính quyền xây dựng đê ngăn lũ, nên toàn bộ khu đất gò Ông Tề được sang lấp, sang phẳng, di dời cả táng toàn bộ mồ mả trên đất này đi nơi khác. Nhưng có một số ngôi mộ thuộc Họ Huỳnh (Chắc sắc, chức việc Cao Đài) thì vẫn được giữ nguyên trạng (Huỳnh Cẩn, Huỳnh Châu, Huỳnh Quang, Huỳnh Phước Khái, Huỳnh Đình Tân...)
Họ HUỲNH chủ yếu lập nghiệp tại Anh Long-Phước Thành-Tuy Phước-Bình Định (sau này đổi An Long-Canh Vinh-Vân Canh-Bình Định) sinh sống bằng nghề nông (gốc rạ) có một số nhánh lập nghiệp sinh sống nơi khác như:
- Nhánh Ông Huỳnh Lý (đời thứ 3) sinh sống tại : Thanh Qui – Phước An –
Tuy Phước
- Nhánh Ông Huỳnh Liên (đời thứ 3) sinh sống tại : Nam Tăng – Canh
Vinh-Vân Canh.
- Nhánh Ông Huỳnh Cảnh (đời thứ 4) sinh số tại : Nhơn Hòa-An Nhơn vì Bà Lê Thị Kỉnh Mẹ Ông Huỳnh Cảnh là sinh ra ở Nhơn Hòa-An Nhơn nên Ông Huỳnh Cảnh lấy vợ cùng làng của Mẹ và ở rể tại đó.
- Cành Huỳnh Cao Vân (con Ông Huỳnh Cảnh) sinh sống tại Thành Phố Qui
Nhơn-Tỉnh Bình Định , Con cháu họ Huỳnh sinh sống ở vùng quê làm nông, vì vậy
đã hưởng được Hồng Phúc từ Ông rất nhiều, vì Ông sinh sống tại thành phố nên có nhiều điều kiện tốt hơn, nhất là mỗi khi con cháu đau ốm phải đi bệnh viện, xuống TP ăn học xa nhà (bản thân người viết có 1 năm ăn ở tại nhà Ông để học lớp 12 tại trường Quốc Học)
Cùng với dòng đời, khoản từ năm 1990 đến nay, người dân Miền Trung vào
Miền Nam học tập và mưu sinh, con cháu họ Huỳnh Kể từ đời thứ 6 và 7 cũng bắt đầu di cư vào Miền Nam, Sài Gòn học tập, mưu sinh, lập nghiệp rất nhiều (khoản 30-40 người)
Trên đây là sơ lượt vị trí địa lý và quá trình hình thành Họ Huỳnh tại An Long-Canh Vinh- Vân Canh-Bình Định, tóm lượt một số thông tin nổi bật của
các Cụ, Ông, Bà đã để lại nhiều Công Đức cho dòng họ. Hy vọng quyển Gia Phả này khi phổ biến đến anh em con cháu sẽ thêm phần thắt chặt tình máu mủ, tinh thần tương thân tương ái, chị ngã em nâng - là thứ tài sản quý giá bao đời của dòng họ Huỳnh nhà ta vậy.
TÂM NIỆM
Chắp tay chưa hẳn nguyện cầu
Trọn lòng trước Thầy ngỏ hầu Biết ơn
Chắp tay không phải van lơn
Mà đưa tâm niệm chánh chơn trở về.
Chắp tay không thiết hẹn thề
Mời tâm rong duỗi.. cận kề với thân.
Chắp tay không để phân trần
Dứt lòng phân biệt, ngã nhân chẳng còn..
Chắp tay không phải cầu toàn
Để yêu thương cõi nhân hoàn bấp bênh!
Chắp tay nào phải cầu xin..
Trong niềm cát bui..,biết mình nhỏ nhoi..
Chắp tay chẳng phải khấn trời
Âm thầm chúc phúc một lời cho nhau..
Chắp tay không ước nhiệm mầu
Nhủ lòng bắc những nhịp cầu Hiểu Thương
Chắp tay thôi kết mộng trường
Thắp lên đèn Tuệ tìm đường bước ra.
Chắp tay một đóa Liên hoa
Sống cùng Vô ngã vị tha trọn đời..
Chắp tay trên bến luân hồi
Quay về Tỉnh thức, đây rồi cố hương!
Chắp tay, đừng nghĩ chuyện thường
Chỉ trong một niệm mười phương đại đồng.
Chắp tay vẹn cả tấm lòng
Trần duyên dứt sạch, qua dòng tử sinh..
DÒNG ĐỜI
Cây có cội, lá liền cành
Năng tu thân mới thành danh sau này
Cháu con phúc ấm hôm nay
Nhờ ơn Tiên Tổ đức dày ngàn năm
Anh đi trước, em theo sau
Mối tình thân tộc hãy mau tụ về
Dù đây hay đã xa quê
Hướng tâm chung sức hội tề An Long
Mong cho mọi điều song hành
Kết nối dòng tộc rạng danh muôn đời!
Họ Huỳnh người khắp muôn nơi
Ngẫm xong xin hãy đôi lời cùng nhau.
Từ sơ khai đến tương lai
Ngõ thôn cho đến nước phố Sài xa xôi
Đã mang dòng máu Huỳnh rồi
Tình như ruột thịt không rời được nhau
HÀNH TRÌNH ĐIỀN DÃ
Một mình rong ruổi khắp nơi
Tầm siêu Huỳnh Tộc muôn đời hiển vinh
Hai năm lăn lộn viết, hình
Lập lên phả hệ, thành hình đồ tông
Công việc rồi cũng thành công
Thông tin ghi chép nhiều trong sổ này
Thêm vào cuốn phả hàng ngày
Mong cho Phả Tộc xong ngay lúc này.
www.huynhtoc.vnn.mn