GIA

PHẢ

TỘC

Phan
Doãn
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
Nhà thờ họ Phan Doãn được xây dựng thời Nguyễn trên mảnh đất mà tổ tiên dòng họ Phan Doãn đã bỏ nhiều công sức xây dựng, vun đắp xóm làng ngày một trù phú. Trải qua quá trình tồn tại, di tích hiện nay còn có các công trình: Cổng, sân, vườn, nhà Hạ đường, sân lộ thiên, Tả vu, Hữu vu, nhà Trung đường, sân lộ thiên, nhà Thượng đường. Tại đây còn lưu giữ được nhiều hiện vật, cổ vật quý như long ngai, bài vị, sắc phong, lư hương, giá chúc... Ngoài giá trị về văn hoá, nghệ thuật thì đây còn là những nguồn tư liệu quý giá giúp hậu thế tìm hiểu không chỉ về thân thế, sự nghiệp của các tiên tổ và hậu duệ dòng họ Phan Doãn mà còn hiểu thêm về xã hội đương thời, về sự quan tâm của các triều đại phong kiến đối với đời sống tâm linh của nhân dân, đặc biệt là chính sách đối với người có công với quê hương, đất nước. Đồng thời, thông qua những hiện vật, cổ vật đó, hậu thế còn hiểu được sự phát triển của nghệ thuật chạm khắc trong suốt chiều dài lịch sử của cha ông. Di tích là nơi thờ phụng các vị tiên tổ của dòng họ Phan Doãn mà nhiều người trong số đó có công với quê hương, đất nước, được nhân dân tôn làm thần, dựng đình thờ phụng, tiêu biểu là: Phan Tích Thiên, Trì uy tướng quân Phan Huệ Mệnh, Quả nghị tướng quân Phan Bá Thường, Phan Bá Khuê, quan tri phủ Phan Bá Lữ,…


CÁC DANH NHÂN CỦA HỌ PHAN DOÃN

1.- Trì uy tướng quân Phan Huệ Mệnh: Sinh vào khoảng đời vua Lê Huyền Tông (1663 - 1671), là hậu duệ đời thứ 5 của dòng họ Phan Doãn làng Tràng Thành, tổng Quan Triều, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc xã Hoa Thành, huyện Yên Thành) . Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ Phan Huệ Mệnh đã có tư chất thông minh, lanh lợi, ham thích võ nghệ.
Lúc bấy giờ, đất nước đang diễn ra cuộc nội chiến kéo dài trong gần nửa thế kỷ, sử gọi là cuộc chiến tranh “Đàng Trong và Đàng Ngoài” hay chiến tranh Trịnh - Nguyễn, Phan Huệ Mệnh đã chọn con đường binh nghiệp để lập thân. Ông gia nhập đội Ưu binh thuộc đạo quân Túc vệ. Trong thời gian ở quân ngũ, Phan Huệ Mệnh lập được nhiều chiến công nên được thăng chức Chỉ huy sứ, tước Hoa Yến bá, sau được thăng chức Trì uy tướng quân, thuộc hàm Tòng tứ phẩm.
Sau một thời gian làm quan tại triều, Phan Huệ Mệnh nhận thấy thời cuộc ngày càng rối ren, loạn lạc, lại chứng kiến cuộc sống của người dân trên quê hương mình gặp nhiều khó khăn, vất vả như hạn hán, mất mùa, đói kém, kéo theo dịch bệnh hoành hành Phan Huệ Mệnh đã xin từ quan về quê góp sức mình giúp quê nhà qua cơn hoạn nạn. Ông đem của cải, thóc lúa cấp phát cho những người nghèo, nhờ vậy mà nhiều gia đình nghèo khó, thiếu ăn trong làng đã vượt qua cơn đói khổ, nhân dân trong vùng hết lời ca tụng. Không chỉ vậy, Phan Huệ Mệnh còn được coi như vị cứu tinh của dân làng có công lớn trong việc đem bài thuốc gia truyền của mình cứu giúp cả làng vượt qua bệnh dịch tả.
Với nhà thờ của dòng họ, ông bỏ tiền công đức khởi dựng 01 tòa 03 gian hai hồi bằng gỗ, lợp mái tranh (nay là nhà Thượng đường).
Do tuổi cao sức yếu, Phan Huệ Mệnh mất vào ngày 17 tháng 6 âm lịch (không rõ năm). Với những đóng góp, công hiến to lớn của ông, nhân dân đã tôn ông làm thành hoàng và đưa vào phối thờ tại đình Bảo Lâm, làng Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành). Đến năm 1960, đình bị dỡ làm trường cấp 2 xã Hoa Thành, dân làng và con cháu dòng họ đã rước long ngai, bài vị của ông về phối thờ tại Đền Cả, xã Hoa Thành. Hiện nay tại nhà thờ Phan Doãn còn lưu giữ 02 sắc phong Bản cảnh Thành hoàng cho ông Phan Huệ Mệnh.

2.- Quả nghị tướng quân Phan Bá Thường (Đời thứ 10), còn gọi là Biện, sinh ngày 15 tháng 05 năm Kỷ Mão niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 20 (1759), là hậu duệ thứ 10 của dòng họ Phan Doãn, trong một gia đình Nho giáo, cha là Phan Trọng Dung, một thầy đồ dạy học ở trường làng. Ngay từ nhỏ, Phan Bá Thường đã thể hiện là một cậu bé lanh lợi, tuấn tú, đặc biệt ham thích võ nghệ. Được cha mẹ cho ăn học tử tế, lại có thầy giáo giỏi dạy tại tư gia nên tuổi trưởng thành, Phan Bá Thường là một thanh niên văn võ song toàn.
Là trang nam nhi sinh ra trong thời cuộc loạn lạc, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân xảy ra khắp nơi, Phan Bá Thường liền hăng hái ứng nghĩa khi đội quân của Nguyễn Huệ dừng chân ở Nghệ An tuyển them quân và được sung vào đội Trung quân, ngày đêm luyện tập võ nghệ.
Phan Bá Thường cũng vinh dự được góp mặt trong cuộc chiến lịch sử tại đồn Ngọc Hồi và Hà Hồi ngày 5 tết năm Kỷ Dậu của đội quân Tây Sơn.
Sau chiến thắng, nhà vua luận công ban thưởng, ông Phan Bá Thường được phong Quả nghị tướng quân, tước Vị Ngọc hầu - Là một trong 5 tước được vinh phong cho người có công: công, hầu, bá, tử, nam..
Do bạo bệnh, ông mất ngày mồng 6 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), an táng tại Cồn Nắc. Sau khi ông mất, nhớ đến công lao của ông, nhân dân địa phương đã tôn ông làm Phúc thần, đưa vào phối thờ tại Đền Cả, làng Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành). Các triều đại phong kiến đã ban tặng nhiều sắc phong cho ông. Hiện nay, tại nhà thờ họ Phan Doãn còn lưu giữ 02 sắc phong của ông:
Năm 1972, mộ của Phan Bá Thường được con cháu cát táng về cồn Sùng (nay thuộc xóm Tân Quang, xã Hoa Thành).

3.- Phan Bá Khuê: Còn gọi là cố Trứ hay cố Già sinh năm Canh Dần (1770) là hậu duệ đời thứ 10 của dòng họ Phan Doãn. Cha là Phan Trọng Tiến, tham gia quân vụ nhiều năm được thăng chức Tá lang, mẹ là người phụ nữ đảm đang, giỏi quán xuyến. Được cha mẹ tạo điều kiện để học tập, rèn dũa chu đáo. Thuở nhỏ, Phan Bá Khuê đã nổi tiếng nhanh nhẹn, hoạt bát, tính tình tốt bụng lại ham đọc sách thánh hiền.
Phan Bá Khuê dù ham học nhưng không lấy con đường khoa cử để vinh danh. Ông quan niệm việc học, đọc sách thánh hiền chỉ cốt để mở mang tâm trí, tăng sự hiểu biết cho bản thân mà thôi. Với bản tính hiền lành, nhân ái, tư gia lại giàu có, Phan Bá Khuê lấy việc giúp đỡ mọi người làm niềm vui. Ông luôn sẵn lòng giúp đỡ dân nghèo, chăm lo làm việc thiện.
Thời bấy giờ, nhiều năm vùng Tràng Thành bị hạn hán kéo dài, mùa màng thất bát, khiến cho cuộc sống của nhân dân đã khổ càng thêm khổ. Trước tình hình đó, ông Phan Bá Khuê một mặt đem của cải, thóc gạo và thuốc men phát chẩn cho dân qua cơn hoạn nạn, ốm đau. Mặt khác, ông nhận thấy việc giao lưu, trao đổi giữa làng Tràng Thành với các làng khác rất khó khăn vì các làng thường bị ngăn cách bằng những con sông. Để khắc phục vấn đề đó, ông đã bỏ tiền của xây cầu cống như cầu đá 7 nhịp nối liền 2 xã Bắc Thành và Trung Thành, cầu Đá sông Vẹn, cầu Vẹn, cầu đá làng Phúc Tăng (xã Quan Hóa), cầu đá làng Trụ Pháp, cầu đá đình Chợ Dăng, tổng Vân Tụ (nay là xã Mỹ Thành), cầu đá làng Yên Xá, tổng Quan Trung... Từ đó, không chỉ giao thông đi lại thuận tiện mà việc giao lưu, trao đổi của dân làng cũng có bước phát triển, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân.
Ông cũng rất chú trọng đến đời sống tâm linh, ông cung tiến nhiều tiền của để tu tạo cũng như tổ chức tế lễ cho các đình, đền, chùa, miếu mạo trên địa bàn như: đình Bảo /Lâm, chùa Bảo Lâm, đền Cả, đền làng Dinh, đền làng Phú Thọ, đền Làng Nam.... Những việc làm tốt đẹp của ông Phan Bá Khuê được nhân dân, làng xã ghi nhận, khắc lên bia đá lưu tại đình Bảo Lâm, xã Hoa Thành.
Với nhà thờ của dòng họ, năm 1853, ông bỏ tiền công đức trùng tu nhà Thượng đường (hiện nay) và xây thêm nhà Trung đường (hiện nay) bằng gỗ, lợp ngói và cúng tiến thêm nhiều hiện vật có giá trị như bia đá, cột hương đá…
Ông Phan Bá Khuê mất ngày 24 tháng 5 năm Ất Sửu (1865). Công đức của ông nổi tiếng khắp vùng, nên nhân dân 6 xã Tràng Thành, xã Phúc Thành, xã Kim Thành, xã Quang Trung, xã Văn Tụ và xã Lý Trai đến làm lễ mai táng cho ông.

4. Quan tri phủ Phan Bá Lữ: Còn gọi là Phan Lữ, tên chữ là Tập Khánh, hiệu Tôn Trai tiên sinh. Ông sinh năm Bính Tý (1816), là hậu duệ đời thứ 12 của họ Phan Doãn. Gia đình ông nổi tiếng trong vùng vì có truyền thống hiếu học, cả 03 cha con đều đậu đạt. Cha là Phan Sỹ Đôn, đậu Tú tài khoa Mậu Thân (1848), ông Phan Bá Lữ đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858), em trai Phan Bá Hiến, đậu Cử nhân khoa Giáp Tý (1864).
Sau khi thi đỗ Cử nhân năm 1858, Phan Bá Lữ được bổ nhiệm làm Tri huyện huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang (nay là huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), hàm Chánh thất phẩm. Trong thời gian ông làm quan tại đây, Phan Bá Lữ luôn thể hiện là một vị quan thanh liêm, đức độ. Ông đã tiến hành cải cách hành chính, thực hiện nhiều chính sách ích nước lợi dân. Nhờ vậy, ông được nhân dân yêu mến, kính trọng, triều đình tin tưởng, trọng dụng. Năm 1865, ông được thăng lên chức Tri phủ, phủ Thông Hóa (nay thuộc tỉnh Thái Nguyên), hàm Chánh lục phẩm. Trị nhậm ở vùng đất mới, ông không ngại khó, ngại khổ, tự mình đi tìm hiểu cuộc sống của người dân, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp, giúp nhân dân yên tâm sản xuất, tình hình xã hội được ổn định.
Đến năm 1876, ông lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mộ táng ở xứ cồn Sùng (nay là xóm Tân Quang, xã Hoa Thành)

Tài liệu này đã được lưu giữ trong Hồ sơ do các tiền nhân để lại và Hội đồng gia tộc họ ta qua các thời kỳ gửi biên soạn để Sở VHTT trình UBND tỉnh công nhận là Di tích văn hóa năm 2017.
Gia Phả Phan Doãn
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Phan Doãn .
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Phan Doãn
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.