1.Lời mở đầu
a. Một số lỗi do phần mềm soạn thảo gia phả không khắc phục được:
...Phần mềm thể hiện cháu ngoại là con của thủy tổ đời thứ 0. Khi xem cháu ngoại thì ta nên bỏ qua mục này.
...Thứ tự anh chị em có một số trường hợp không đúng được, do khi làm bổ sung thêm người thì phần mềm chỉ thêm anh hoặc thêm em mà không sắp xếp lại thứ tự anh chị em.
b. Gia phả thường ghi cháu ngoại và rể trong phần công đức sự nghiệp của người nữ trong tộc. Để rõ ràng hơn, gia phả này vẫn ghi CHÁU NGOẠI và RỂ bằng chữ IN HOA.
c. Đầu dòng thường được thêm các dấu (...) do phần mềm không thụt dòng khi bắt đầu đoạn viết.
2. Lời mở đầu tập Gia phả Tộc Nguyễn Văn năm Mậu Dần -1998
....................LỜI MỞ ĐẦU
...Tộc "Nguyễn Văn" chúng ta nguyên quán Tỉnh Thanh Hóa - Huyện Tống Sơn - Xã Gia Miêu, là con cháu của cụ Nguyễn Kim làm Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân dưới thời vua Chiêu Tông....Trong quá trình biến chuyển của đất nước, năm 1570 tổ tiên chúng ta theo cụ Nguyễn Hoàng (con cụ Nguyễn Kim) di cư vào đất Quảng Nam, thực hiện câu sấm của Trạng Trình "Hoành sơn nhất đới, vạn đợi dung thân".
...Ông Nguyễn Đường Hòe là ông tổ chúng ta vào đất Hóa Phú châu - Huyện Đại Lộc - Tỉnh Quảng Nam (tức Xã Đại An bây giờ). Đến đây, ông đã lập nên cơ nghiệp, con cháu đông đúc, hiện nay còn phái nhì và phái tư ở tại đó.
...Năm Thái Đức thứ III(1781), ông Nguyễn Văn Ơn (phái 3) vào Thôn Đại Lợi - Xã Đại Nghĩa - Huyên Đại Lộc- Tỉnh Quảng Nam lập nghiệp và sanh hạ con cháu chúng ta bây giờ.
...Bước đầu trên con đường lập nghiệp, tổ tiên chúng ta chịu vô vàn gian nan vất vả và tủi nhục, dưới sự áp bức bóc lột của bọn cường hào phong kiến địa phương. Song với ý chí kiên cường, bằng hai bàn tay lao động, bằng khối óc thông minh sáng tạo, một nắng hai sương, với quyết tâm cao lo vun đắp cho gia đình và con cháu mai sau. Tổ tiên chúng ta đã lần hồi gây dựng nên sự nghiệp, con cháu mỗi ngày một đông, đến đời thứ 13-14 là thời kỳ thịnh vượng nhất. Nhà cửa, tự đường được xây cất khang trang, chiếm một vị thế tương đối trong vùng lúc bấy giờ.
...Đến năm 1945, chiến tranh chống thực dân Pháp lại bùng nổ mỗi ngày một tàn khốc. Mọi người đều phải bỏ quê hương, nhà cửa ruộng vườn đi lánh giặc, tản mác khắp mọi nơi. Nhà cửa, tự đường bị thiêu rụi. Từ đó gia phả tộc ta cũng bị thất lạc.
...Sau 30 năm chiến tranh, năm 1975 nhà nước mới được độc lập, cảnh thanh bình đã trở về với quê hương xứ sở. Con cháu tộc ta đã lần lượt tìm về đất tổ mỗi ngày một đông. Nhưng cũng còn một số không ít vẫn còn cư ngụ rải rác khắp nơi trong nước cũng như ở nước ngoài, có người ở nơi phố phường tráng lệ, cũng có người sống ở nơi cao nguyên trù phú vì điều kiện sinh nhai nên không thể nào hồi hương được.
...Xét tình trạng này kéo dài mà gia phả không được tái lập, tránh sao cho khỏi thất tích lạc tông, dẫn đến phạm tội loạn luân là khác. Phát xuất từ đó, chúng tôi "ban biên soạn" đã tra cứu và sưu tầm lập nên tập gia phả này để lại cho con cháu mai sau biết được nguồn gốc tộc mình.
...Tập gia phả này biên soạn theo ký ức của các bậc trưởng lão và liên hệ với tập gia phả tộc Nguyễn ở Hóa Phú châu. Qua nhiều năm tìm tòi và bổ sung, tập gia phả đã thành hình nhưng chắc không tránh khỏi ít nhiều thiếu sót, thật là một trọng tội đối với tiên linh.
..."Chúng con kính xin Tiên linh niệm tình tha thứ". Vậy tất cả con cháu sau này xem đây để biết gia thế của tộc mình mà giữ gìn gia phong, đoàn kết thương yêu nhau, một lòng tô bồi cho gia tộc mỗi ngày một rạng rỡ và phải kế tục bổ sung, bảo tồn gia phả này mỗi ngày một phong phú.
.......CÙNG TẤT CẢ ANH CHỊ EM CON CHÁU NỘI NGOẠI!
...Chúng ta rất đáng tự hào về nguồn gốc dòng dõi của chúng ta. Mặc dầu trải qua bao thăng trầm của đất nước, tộc ta vẫn tồn tại mỗi ngày một vươn lên. Đó là nhờ hồng đức của tổ tiên để lại và dòng huyết thống thông minh, ý chí kiên cường, biết vận dụng tài năng tùy nơi tùy lúc trong cuộc sống thường nhật, biết chịu khó lăn lộn theo nghiệp bút nghiên, trải qua bao nhiêu gian khổ để đạt khoa bảng: nào tú tài, cử nhân, thạc sĩ, kỹ sư, giảng sư, bác sĩ như ngày nay, đã và đang góp tài năng của cải cho xã hội, đem lại vinh dự cho gia đình và tộc họ.
...Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tiến kịp trào lưu xã hội, con cháu chúng ta có xu hướng về thành thị để thi thố tài năng, hầu thoát cảnh chân lấm tay bùn. Vì lẽ đó, dân số tộc ta ở địa phương giảm đi đáng kể, đó là điều trăn trở lo lắng nhất trong mỗi chúng ta.
..."Ôn cố tri tân", nhìn lại tổ tiên đã hai lần di cư, nguồn gốc đã rõ nhưng chưa có cơ hội nào chúng ta liên lạc với nhau để nối lại tình máu mủ mà cũng chẳng có mấy ai có thiện chí làm việc này. Vì đã trải qua nhiều đời, sự quan hệ trở nên xa lạ ngỡ ngàng, thật là một điều đáng tiếc mà chúng ta đành phải cam chịu.
...Vậy thế hệ chúng ta và mai sau quyết tâm không để điều này tái diễn nữa vì hiện tại con cháu tộc ta cũng đã và đang di cư lập nghiệp khắp nơi trong nước cũng như nước ngoài. Chúng ta hãy thực hiện câu "LY HƯƠNG BẤT LY TỔ" mà ông cha ta đã dạy. Khác với xưa, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, không gian và thời gian không còn là một trở ngại đáng kể đối với sự giao lưu giữa chúng ta, dù cách xa nhau vạn dặm chúng ta cũng có thể thông tin tin tức với nhau một cách dễ dàng. Vì thế chúng ta nhất quyết không để thất tích lạc tông như trước đây nữa.
...Thay mặt gia tộc, chúng tôi thiết tha kêu gọi tất cả con cháu nội ngoại trai gái, dù ở hoàn cảnh nào hay bất cứ ở nơi đâu phải luôn luôn tưởng nhớ đến cội nguồn, nơi mà tổ tiên đã bao đời dày công xây dựng và sản sinh ra chúng ta ngày nay. Không một lý do gì cho phép chúng ta chia rẽ nhau hoặc lãng quên thờ ơ đối với công đức cao dày của ông cha ta được. Thế hệ chúng ta có bổn phận giáo dục và nhắc nhở con cháu biết rõ cội nguồn, tôn ty trật tự. Hãy xem ngày tế xuân 16 tháng Giêng âm lịch là ngày giỗ tổ hằng năm của tộc ta. Là con cháu hãy cố gắng dành thì giờ về tham dự, trước thăm viếng mồ mả và dâng hương tổ tiên tỏ lòng hiếu thảo của mình, sau thăm viếng họ hàng để thắt chặt thêm tình yêu thương máu mủ.
...Đại đa số con cháu ở phương xa là những hạt nhân quý báu của gia tộc. Gia tộc ta có vinh hạnh hay không, có đông đúc sum vầy hay không? Đều trông vào lòng hiếu thảo của con cháu nội ngoại xa gần. Dù ở bất cứ phương trời nào, chúng ta cũng hướng về gia tộc, hướng về mồ mả tổ tiên, hướng về ngày giỗ tổ hằng năm.
...Hãy lấy câu ca dao sau đây làm câu tâm niệm:
........................."DÙ CHO CÔNG VIỆC BỘN BỀ.
........................THÁNG GIÊNG MƯỜI SÁU PHẢI VỀ TẾ XUÂN".
...Mấy lời tâm huyết, gia tộc gởi đến anh em con cháu khắp bốn phương và cầu chúc tất cả an khang thịnh vượng vạn sự như ý.
.........................Đại Lộc, ngày 12 tháng 2 năm 1998.
........................Ban biên soạn:
.........................Cố vấn: Ông NGUYỄN VĂN KỲ
.................................... Ông NGUYỄN VĂN KHÁCH
.........................Chủ biên: Ông NGUYỄN VĂN KHAI
.........................Đánh máy lại: NGUYỄN KHÁNH LINH
3. Một số nhận định về họ Nguyễn ở Gia Miêu - Tống Sơn - Thanh Hóa
4. Họ Nguyễn Văn còn ở Quảng Huế
5. Làng Đại Lợi
a. Địa thế làng Đại Lợi
b. Tiền hiền làng Đại Lợi
c. Di tích Chăm
d. Đình làng Đại Lợi
e. Nhà thờ đạo Công Giáo - Vườn Hoang
f. Vườn Nha - Trường tiểu học Đoàn Nghiêng
g. Cầu Phốc, Bến Dê và Bến Hát
f. Những quả bom rơi ở làng Đại Lợi
g. Đại Lợi chạy Tây
6. Một số nhân vật tiêu biểu của tộc Nguyễn Văn
a. Ông Nguyễn Văn Ơn - Đời thứ 10
b. Ông Nguyễn Văn Liễn - Đời thứ 13
c. Ông Nguyễn Văn Đảnh - Đời thứ 14
d. Ông Nguyễn Văn Mật - Đời thứ 14
e. Ông Nguyễn Văn Khai - Đời thứ 15
f. Ông Nguyễn Văn Nhâm - Đời thứ 16
7. Nhà thờ Tộc Nguyễn Văn được xây dựng lần thứ nhất
8. Nhà thờ Tộc Nguyễn Văn được xây dựng lần thứ hai
9. Nhà thờ Tộc Nguyễn Văn được xây dựng lần thứ ba
VỤ GIÀNH NAI VỚI NGƯỜI ĐẠI AN
Ngày ấy có một con nai bị người Hòa Vang truy đuổi, nai chạy dọc theo núi lên đến Tổng Đức Hạ. Khi nai chạy vào làng Đại An thì lại bị người Đại an tiếp tục truy đuổi, đến gần Núi Kính thì nai lại chuyển hướng chạy ra làng Đại Lợi, bị vấp gốc cây nên nai ngã và bị người Đại An tóm được.
Người Đại An tóm được nai nhưng NAI NGÃ TRÊN ĐẤT LÀNG ĐẠI LỢI, lấy lý lẽ này nên những người Đại Lợi làm đồng gần đó bao vây nhóm người tóm nai, không cho khiêng nai đi. Đất Đại Lợi nhưng lại gần dân làng Đại An hơn, người Đại An lại ra bao vây nhóm dân Đại Lợi.
Cuộc tranh nai quyết liệt chưa có hồi kết. Lý trưởng Đại Lợi (người họ Nguyễn) thấy tình thế căng thẳng nên cấp báo quan huyện. Quan huyện phi ngựa vào làng Đại Lợi, băng đồng đến chỗ nai ngã. Ông ta bợ cái nọng nai, còn lại xử chia đôi.
Viết theo lời kể các cụ xưa.
VƯỜN NHA CÓ NHIỀU U UẤT
Khu vực trường tiểu học Đoàn Nghiên trước đây còn có tên gọi là Vườn Nha, trong làng Đại Lợi chưa từng có ai tên Nha sao khu đất lại có tên gọi là Vườn Nha? Và mỗi khi nhắc đến Vườn Nha, dân trong làng lại thường nghĩ nơi đây có nhiều u uất?
Vùng đất Quảng Nam vào các thế kỷ trước bị nhiều thế lực tranh giành: Người Kinh và Người Chăm, các Chúa Nguyễn và Tây Sơn, giữa anh em Tây Sơn với nhau, Người Việt và Pháp.
Ngày nay nhìn trên google map có thể thấy Đại Lợi như một ốc đảo được bao bọc bởi Bàu Gia, Bàu Ông, Núi Kính, phía Đông Bắc là Bàu Thí và cánh đồng giáp với Đại An. Đường tiến vào làng chỉ có thể từ hướng đông, men theo Bàu Lá, Bàu Gia và băng qua làng Hòa Tây.
Thời chiến tranh với vũ khí là gươm giáo thì địa thế làng Đại Lợi như nói trên là một lợi thế, được bao bọc bởi núi, hào sâu và rất gần nguồn nước. Khu đất trường tiểu học Đoàn Nghiên từng được chính quyền xưa chọn làm cái nha của chính quyền. Nha là trụ sở hành chính (từ điển tiếng Việt). Từ nha trước đây thường được gặp trong các cụm từ như Nha cảnh sát quốc gia, Nha an ninh quân đội, Nha công dân vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha cảnh sát đô thành.
Về sau thời thế thay đổi, chính quyền dời trụ sở đi nơi khác nên nơi đây bị bỏ hoang thành khu vườn trống. Vì vậy dân làng gọi nơi đây là Vườn Nha.
Đặc biệt là thời kỳ bách hại Kitô giáo, chính quyền bắt những người chống đối và những người theo đạo về giam giữ nơi đây và giết họ. Một số bị trói từng nhóm đến 5 người rồi dẫn đi dìm chết ở các bến nước Bàu Ông, Bàu Ngà. Vì vậy khi nhắc đến Vườn Nha và các bến nước, dân làng thường sợ những nơi đó có nhiều u uất.
|