NGUỒN GỐC
* NGUYÊN QUÁN: - Xứ Nghệ An, Phủ Hà Ba (còn gọi là Hà Hoa), Huyện Kỳ Ba (còn gọi là Kỳ Hoa), Xã Đỗ Chư, Thôn Sơn Triều
Theo "Đại nam dư địa chí ước biên" của Cao Xuân Dục, người dịch: Tiến sĩ Hoàng Văn Lâu xuất bản năm 2003, thì:
- Năm 1831,vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Hà Tĩnh (phía nam sông Lam); Nghệ An (phía bắc sông Lam). Huyện Kỳ Hoa hiện nay chính là huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
- Trong tỉnh Nghệ An hiện không có tên Hà Ba (Hà Hoa) và Kỳ Ba (Kỳ Hoa) nào cả.
- Như thế, nguyên quán tộc Lương trước đây ghi Nghệ An là đúng, nhưng hiện nay thì thuộc về huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Thêm nữa, tên cũ của thôn Tân Phú, xã Kỳ Thọ, huyện Kỳ Anh là thôn Sơn Triều, tổng Đô Chư, huyện Kỳ Hoa. Tại nơi đây có nhà thờ tộc Lương.
( Xem thêm phần phụ lục )
* DI CƯ ĐẾN: - Dinh Quảng Nam, Phủ Thăng Hoa, Huyện Duy Xuyên, Tổng Xuân Phú Trung, Xã Phong Đăng, ấp Đồng Thành
Nay là thôn Đồng Thành, xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
TỘC LƯƠNG NAM PHƯỚC
Gia phả nước ta có từ thời nhà Lý. Cuốn gia phả đầu tiên của Lý Thái Tổ (1026) là cuốn Hoàng Triều Ngọc Diệp. Đời Trần có Hoàng Tông Ngọc Điệp. Đời Lê có Hoàng Lê Ngọc Điệp. Những tộc họ ở nước ta có Phả ý, Phả chí, Ngọc phả, Gia phả.
Tộc Lương chúng ta theo Gia phả để lại gốc ở Nghệ An, phủ Hà Ba, huyện Kỳ Ba, xã Đỗ Chư, thôn Sơn Triều. Những năm cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, trong hàng chục vạn quân dân Thanh Hóa, Nghệ An theo bước chân Nam Tiến, mở mang bờ cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn, có Thuỷ tổ Lương Văn Trường di cư vào Quảng Nam, sinh cơ lập nghiệp tại phủ Thăng Hoa, huyện Duy Xuyên, tổng Xuân Phú Trung, xã Phong Đăng, ấp Đồng Thành, nay là thôn Đồng Thành, xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Thuỷ tổ đã khai khẩn đất hoang lập nên xã Phong Đăng Một thời gian sau, mộ Thượng tổ Lương Trường Thọ được di dời từ Nghệ An về Quảng Nam an táng tại thôn Phước Ninh, Quế Châu, Quế Sơn, Quảng Nam . Thượng tổ thuộc đời thứ năm tộc Lương ở Nghệ An, sinh thời Thượng tổ làm quan Tiền Cai tổng quận An Định, sau khi mất nhờ công khẩn đất lập xã Phong Đăng của Thủy tổ Lương Văn Trường nên được phong Tiền Hiền xã Phong Đăng
Bộ phận tộc Lương di cư vào Đồng Thành, Quế Châu, Quế Sơn, được bốn đời thì có một bộ phận chuyển ra ở làng Long Xuyên nay là thôn Long Xuyên, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Thuỷ tổ tộc Lương Nam Phước là ông Lương Văn Chánh. Từ đó, tộc Lương ở Quảng Nam có 2 nhánh: Nhánh gốc ở thôn Đồng Thành, xã Quế Châu, Quế Sơn và nhánh ở thôn Long Xuyên, thị trấn Nam Phước, Duy Xuyên.
Đến đời cháu nội ông Lương Văn Chánh có ông Lương Văn Câu trở về lại Đồng Thành, hậu duệ của ông Lương Văn Câu nay là bà con ở chi 2, phái 1.
Qua thời gian trên 300 năm, tộc Lương Long Xuyên, Nam Phước ngày một phát triển, con cháu ngày càng đông đúc bao gồm 4 phái và 14 chi nằm rải trên nhiều tỉnh thành của đất nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Gia Lai, Đồng Nai, Đà Nẵng, các huyện Đại Lộc, Tam Kỳ, thôn Nam Ô ....., đông nhất là ở Nam Phước, Duy Xuyên.
Con cháu tộc Lương là những người cần cù, thông minh, hiếu học. Thời Nho học, tộc Lương Đồng Thành, Quế Châu, Quế Sơn có nhà ba đời bốn người đỗ đạt : Cụ Lương Văn Vi đỗ Tú-tài. Cụ Lương Trọng Tuân, con cụ Vi, đỗ cử nhân được bổ làm quan Hàn lâm thị độc học sĩ. Cụ Lương Quí Di, em ruột cụ Tuân, đỗ Cử nhân được phong chức Hàn lâm viện thị độc học sĩ, ở quê gọi cụ là ông Thị Đồng Thành. Cụ Lương Trọng Hối , con cụ Lương Trọng Tuân, đỗ Cử nhân hán học, và bằng Thành chung Tây học. Cụ làm quan đến chức Tham tri Bộ Hình, Tuần vũ Quảng Ngãi. Cụ là người có tinh thần dân tộc, tham gia phong trào Duy Tân từ năm 18 tuổi. Cụ là ông quan có tiếng thanh liêm, chánh trực, sống một cuộc sống bình thường, giản dị. Trong kháng chiến chống Pháp, cụ giữ chức Chủ tịch Mặt trận Liên Việt và Phó Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, hội trưởng Hội Đông y Quảng Nam. Tộc Lương ở Nam Phước có cụ Lương Mậu Thám đỗ tú tài Hán học được phong hàm Hàn lâm trước tác. Thời phong kiến, học vị Cử nhân, Tú tài hán học rất hiếm, cứ ba năm một lần sĩ tử ở các tỉnh miền Trung phải lặn lội hàng tháng trời ra ứng thí tại Thừa Thiên, số lượng trúng tuyển rất ít, cụ thể như ở Trường thi Thừa Thiên (Huế), suốt từ năm 1807 đến năm 1918 (111 năm) chỉ có 911 người ở các tỉnh đỗ cử nhân suốt cả 32 khoá thi .
Ngày nay, con cháu tộc Lương nhiều người có học vị cao ,nhiều người thành đạt trong kinh doanh ,trong sản xuất, có địa vị tương đối cao trong xã hội. Trong các phong trào chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, phát triển xã hội, con cháu tộc Lương có nhiều người tham gia, có người hy sinh tính mạng, đóng góp nhân lực, vật lực đem về tiếng thơm làm rạng rỡ gia tộc.
Tỉnh Quảng Nam là một trong những chiến trường ác liệt nhất tnong hai cuộc kháng chiến (1945-1954); (1960-1975). Huyện Duy Xuyên, hết bị Pháp tạm chiếm đến bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên đóng quân, nên là huyện chịu sự tàn phá, huỷ diệt nhất tỉnh. Trong suốt 30 năm, bà con tộc Lương phải chạy tản cư khắp nơi, nhiều người không trở về quê cũ, có người bị thất lạc hoặc chết nơi đất khách quê người. Năm 1954,một số bà con tập kết ra miền Bắc. Đặc biệt, sau ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt Nam chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng Công nghiệp hoá, nếp sống quây quần bên họ tộc, trong luỹ tre làng đã giảm, ngày càng nhiều tộc hữu xa quê đi sinh cơ lập nghiệp khắp cả nước, kể cả nước ngoài. Cho nên số bà con thường xuyên về sinh hoạt, về Chạp mả không được nhiều, mặc dầu so với trước đây số lượng con cháu đã tăng gấp bội phần. Trước tình hình đó, vào những năm đầu thập niên 1990, tộc đã hợp nhất ba phái để sinh hoạt chung, chạp mả chung. Hội đồng gia tộc quyết định tổ chức cho các con cháu ở xa được về sinh hoạt, cúng giỗ Tổ vào các ngày mồng hai, mồng ba tháng hai Âm Lịch tại nhà thờ tộc Lương Nam Phước.
Để có nơi thờ cúng tổ tiên, nơi gặp nhau của con cháu nội ngoại xa gần về thắp hương ông bà, Tộc trưởng và Hội đồng gia tộc đã vận động con cháu đóng góp xây dựng nhà thờ khá lớn và khá đẹp toạ lạc trong khuôn viên thanh tịnh và rộng rải, tại thôn Long Xuyên, Nam Phước.
Tộc Lương Long Xuyên, Nam Phước là một tộc đông người, con cháu chăm chỉ, cần cù lao động, sinh sống lương thiện, vun đắp tộc họ, hoà đồng với xã hội, làm tốt nghĩa vụ công dân góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh.
|