Người trong gia đình |
Tên |
Lưu Tính (Nam) |
|
Tên thường |
Lưu Tính |
Tên Tự |
|
Là con thứ |
3 |
Ngày sinh |
1863 |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
19 tháng 2 Âm lịch - 1931 |
|
Nơi an táng |
Gò Tre, An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Họ tên, quê vợ; các con: Ông có 4 bà vợ: - Bà thứ 1 tên
Nguyễn Thị Minh, quê An Chiểu, Ân Phong có 2 người con là
Lưu Thị Nhưỡng và Lưu Thông. Mộ bà Minh táng trên vùng đất
Cây Bùi, đồi đất đỏ An Hậu và bị mất tích do chiến tranh.
Kỵ ngày 20 tháng 3.- Bà thứ 2 tên Phan Thị Đôi, quê An Hậu,
An Phong có 3 người con là Lưu Thị Yển, Lưu Hoanh, Lưu Hào,
mộ bà Đôi được cải táng tại Gò Tre An Hậu. Kỵ ngày 14 tháng 11.
Bà Đôi có người con trai thứ 6, chết chưa có tên, mộ ở vườn nhà
Lưu Xuân Cảnh, sát rào phía bắc cuối cùng.- Bà thứ 3 tên Gần
(không rõ họ) ở An Thường, Ân Thạnh, Hoài Ân, Bình Định,
bà này mắc mỏ với con, không chăm sóc gia đình nên thời
ngắn ra đi. Lúc ông bị bệnh bà đã tiêu tán tài sản và bỏ đi nên
không ai ghi nhận công bà.- Bà thứ 4 tên Huỳnh Thị Nghiên,
thường gọi Bà Nuôi hay Bà Năm, quê Xóm Cấm, An Hậu, Ân Phong.
Hoài Ân, Bình Định.
Bà không con, có con gái nuôi là vợ ông Sáu Mau, Họ Đặng, An Hậu
Mộ bà Năm ở núi Một, An Hậu.
Kỵ ngày mùng 5 tháng 5. * Trình độ học vấn, nghề nghiệp:
Ông Tính học chữ Hán có trình độ đọc thông viết thạo.
Làm nghề thợ mộc, nổi tiếng về chạm gỗ và làm nhà kiểu
cổ trên khắp vùng Hoài Ân.* Cách dạy con, cháu; di sản:
Ông dạy con cháu làm việc thiện, coi trọng sự học.
Ông chỉ để lại đất vườn nhà ở, nối tiếp các đời Tiên Tổ cho đến
đời hiện tại.* Địa danh mộ táng:Mộ ông ở Gò Tre, An Hậu,
Ân Phong, bia có mã số ...Hoài Ân, Bình Định, có con là
Lưu Thị Nhưỡng (thứ 3), Lưu Thông(thứ 4). Bà Minh chết
ông có vợ thứ hai là bà Phan Thị Đôi, ở An Hậu,Ân Phong,
Hoài Ân, Bình Định (cô của ông Hai Hoài, Sáu Cừ...),
có con Lưu Thị Yển (thứ 5), Lưu Hoanh (thứ 7), Lưu Hào (thứ 8),
bàĐôi chết ông chung sống cùng bà Gần (không rõ họ) ở
An Thường,Ân Thạnh, Hoài Ân, Bình Định, bà này mắc mỏ với con,
không chămsóc gia đình nên thời gian ngắn ra đi; ông chung sống
với bà tên Nuôi (còn gọi bà Năm), mã ở Núi Một, bà này có công
nuôi ông LưuHào khi mới 2 tuổi bị phỏng lửa, khi ông Hào 6 tuổi,
ông Hoanh 9 tuổi thì ông Tính mất, bà Nuôi sau đó cũng đau yếu
thường xuyên và thờigian ngắn thì bà cũng qua đời. Các on ông
Tính phải sống nhờ bà con cô bác và tự lập về sau.
|
|
Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình |
Tên |
Nguyễn Thị Minh (vợ 1) (Nữ) |
|
Tên thường |
|
Tên tự |
|
Là con thứ |
5 |
Ngày sinh |
Không rõ |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
20/3/ÂL |
|
Nơi an táng |
Không rõ |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Bà là chị bà Thứ 6 tên Nguyễn Thị Sở; ông thứ 7 tên Nguyễn Đệ (còn gọi là ChánhTượng); ông thứ 8 (không rõ tên). |
Tên |
Phan Thị Đôi (vợ 2) (Nữ) |
|
Tên thường |
|
Tên tự |
|
Là con thứ |
10 |
Ngày sinh |
1882 |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
14/11/Âm lịch (1928) |
|
Nơi an táng |
Gò Tre, An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Bà là em ông 8 Xuồng, cô của Ông Hai Hoài, Sáu Cừ |
Tên |
Bà Gần (vợ 3) (Nữ) |
|
Tên thường |
|
Tên tự |
|
Ngày sinh |
Không rõ |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
Không rõ |
|
Nơi an táng |
Không rõ |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Bà này có họ Nguyễn, ở An Thường, Ân Thạnh, Hoài Ân, Bình Định.
Có cháu gọi cô là các ông Lắm, Dị ở Gò Cau. TT Tăng Bạt Hổ.
Có cháu gái gọi cô là mẹ của bà Giữ ở xóm Gò (trước nhà Cảnh).
Bà không có lòng thương con chồng, hay đánh mắng Cha và Chú.
Chuyện rằng: Cha vì thèm lén dấu củ lang khô trong túi áo đến đêm
nằm nhai, bà nghe tiếng nhai liền móc họng và đánh đòn. Lần khác
ông ngậm thật lâu cho mềm củ rồi mới nhai nhưng bà vẫn phát hiện
và đánh đòn. Ông Bảy Mẹo (Lưu Kỳ) ở gần nghe chuyện đến la bà.
Nhiều lần như vậy, bà còn tẩu tán những tài sản của nhà ông Nội,
ông Bảy Mẹo đã đuổi bà đi khỏi nhà để tránh hậu họa. |
Tên |
Huỳnh Thị Nghiên (vợ 4) (Nữ) |
|
Tên thường |
Bà Nuôi hay còn gọi Bà Năm |
Tên tự |
|
Ngày sinh |
1881 |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
05/5/ÂL - 1943 - Thọ 62 tuổi |
|
Nơi an táng |
Núi Một, An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Bà quê Xóm Cấm, An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định.
Bà còn có tên: Huỳnh Thị Nương. Lấy chồng ở Thanh Tú,
có người con gái, lớn tuổi hơn Cha và Chú, về sau bà con
gái là vợ ông Sáu Mau (Họ Đặng, xóm Cấm, An Hậu),
Vợ chồng ông Sáu Mau có con trai tên...,gọi bà là bà Ngoại
ông này có con tên Khanh. Năm 2014 ở Khánh Dương, Lâm Đồng.
Bà có công lớn trong việc nuôi dưỡng Cô 5 Yên, Cha,
Chú 8 Giáo từ lúc hơn 1 tuổi bị phỏng lửa.
Bà rất thương người, giàu lòng hy sinh, nhưng không có con với
ông Lưu Tính.
(THÔNG TIN NÀY THU THẬP NGÀY 06-11-2018 TỪ ÔNG
ĐẶNG VĂN THẠCH (Thạch giếng - con ông Bảy Kết)
(sẽ hỏi rõ hơn).
Do không rõ gốc gác của bà nên không biết còn ai khác có quan hệ.
Bà được con cháu chăm sóc phần mộ hằng năm và luôn ghi nhớ
công ơn to lớn của bà. |
|