GIA

PHẢ

TỘC

Cao

làng
Quan
Xuyên
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: Cao Duy Chinh
Đời thứ: 3
Người trong gia đình
Tên Cao Hữu Mễ (Nam)
Tên thường
Tên Tự
Ngày sinh 1918
Thụy hiệu  
Hưởng thọ: 42  
Ngày mất 9-6-1960  
Nơi an táng Nghĩa trang Núi Lớ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
Ông sinh năm 1918, năm lên 5 tuổi thì mẹ mất. Ở với bố và dì. Mặc dù rất thông minh nhưng không được học và phải đi làm thợ từ rất sớm. Chính vì vậy ông rất giỏi nghề. Đến năm 23 tuổi lấy vợ, do có nghề chữa đồng hồ khá giỏi, nổi tiếng nên có tiền xây nhà, mở cửa hiệu sửa chữa đồng hồ Đức Vinh tại số nhà 58 phố Vân Giang, Thị xã Ninh Bình. Năm 42 tuổi, ông bị ốm mặc dù gia đình đã chạy chữa khá tốt (những năm 1960 gia đình đã thuê xe hơi đưa ông nhiều lần lên bệnh viện Bạch mai Hà nội để chữa bệnh). Nhưng do bệnh tình khá nặng, ông ốm chết năm 1960 thọ 42 tuổi để lại 6 đứa con, con lớn 13 tuổi, con nhỏ còn đang trong bụng mẹ được 6 tháng.

Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên Dương Thị Cúc (Nữ)
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh 1925
Thụy hiệu  
Ngày mất 18-6-2003  
Nơi an táng Nghĩa trang Núi lớ, TP Ninh Bình  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
Bà Dương thị Cúc sinh năm 1925, quê quán La Xuyên, Ý Yên, Nam Định. Bà là con một nhà buôn bán gỗ tại Thị xã Ninh Bình. Là con gái lớn của gia đình được bố mẹ cho đi học đến năm lớp 4 (thời Pháp thuộc) lấy chồng (là ông Cao Hữu Mễ) từ năm 17 tuổi. Sau khi lấy chồng bà đi buôn hàng tấm (buôn vải) ở chợ thị xã Ninh Bình. Năm 1944, sinh cô con gái đầu lòng nhưng mất ngay lúc mới sinh. Năm 1945, cả gia đình tản cư vào Thọ Vực, Thọ Xuân, Thanh Hóa (sơ tán thời kháng chiến 9 năm). Năm 1946, ông bà sinh con trai cả là Cao Đức Thành, năm 1949 sinh con trai thứ 2 là Cao Đức Thắng, năm 1952 sinh con trai thứ 3 là Cao Đức Thịnh. Năm 1955 gia đình trở về Thị xã Ninh Bình bà sinh tiếp 3 người con nữa là Cao Đức Vượng, Cao Thị Mai và Cao Đức Tuấn. Năm 1960, chồng chết bà ở vậy một nách nuôi 6 đứa con trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Năm 1964 máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc, ngôi nhà 7 gian, ba mặt phố - Số 58 Phố Vân Giang (đối diện cầu Chà Là, gần rạp chiếu bóng Hoa Lư bây giờ) bị ảnh hưởng của bom bay hết mái ngói. Toàn bộ phần gỗ lim (rui, mè, cửa...) bà thuê người dỡ, vận chuyển về cất giữ tại xã Trường Yên, huyện Gia Khánh (cách thị xã Ninh Bình khoảng 12 Km. Số gỗ ấy sau bán được khoảng 1000 đồng (một nghìn đồng). Hồi ấy, anh Thắng đang học lớp 10 nếu muốn đi học tiếp đại học thì gia đình phải có thành phần làm ăn tập thể (nghĩa là bố mẹ phải là xã viên hợp tác xã nào đó). Vì vậy, để có lý lịch là gia đình làm ăn tập thể cho con được vào học đại học bà đã phải dồn hết tiền mua một chiếc máy khâu Mitsubhi cũ để cùng với chiếc máy khâu đó xin vào hợp tác xã may mặc Hoa Lư để anh Thắng mới được đi học trường Đại học Sư phạm Vinh. Tôi còn nhớ mãi cái đêm ấy- cái đêm sau khi mẹ tôi bỏ tất cả tiền ra mua chiếc máy khâu, bà ôm các con khóc mãi, chúng tôi khóc theo mà không hiểu vì sao ? rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết. Trong những năm chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mĩ (1964 đến 1972) bà đưa các con đi sơ tán tránh bom, tránh đạn. Trải qua 9 lần dựng nhà, làm lều, lúc ở hang Núi Kỳ Lân, Voi đá ngựa đá, khi ở kho đựng vôi sống (bên cạnh lò nung vôi chân Núi Sẻ của hợp tác xã nông nghiệp thôn Đa Giá, xã Ninh Mĩ, huyện Hoa Lư ngày nay). Đã thế hàng ngày bà vẫn phải cặm cụi một mình kiếm tiền nuôi con ăn học... Không hiểu bà lấy đâu ra nghị lực phi thường để tồn tại, vượt qua được những ngày như thế ? (còn rất nhiều chuyện về việc bà góa nuôi con bị ức hiếp mà chưa có điều kiện để kể ra đây...). Ngôi nhà cuối cùng bà ở là nhà số 250 Phố Hải Thượng Lãn Ông. Bà mất năm 2003 tại ngôi nhà này. Khi nghĩ và viết về bà lúc nào tôi cũng nghẹn ngào, xúc động đến rơi nước mắt... Bà thương con nhất mực như tấm lòng người mẹ nhưng cũng có cái chí của người làm cha để nuôi, dạy các con. Mục tiêu của cả đời bà là bằng mọi giá, phấn đấu cho con được ăn học để thoát ly làm cán bộ, để con đỡ khổ được có lương hưu của nhà nước khi già... (bà thường nói thế - đơn giản mà sâu sắc vô cùng). Có viết bao nhiêu về bà cũng không đủ. Ba mươi nhăm tuổi, tóc còn xanh lắm mà đã góa bụa, một mình gánh vác nuôi 6 con ăn học nên người. Bà - một người mẹ đảm đang, dũng cảm, trách nhiệm, hiểu biết và có lòng hy sinh cao cả vô cùng... Hiện nay mộ bà đặt tại nghĩa trang Núi Lớ bên cạnh chồng và hai người con trai của Bà.

Các anh em, dâu rể:
   Cao Hữu Đồng
   Cao Hữu Bộ
   Cao Thị Chí
   Cao Duy Chính
   Cao Duy Chung
Con cái:
       Cao Đức Thành
       Cao Đức Thắng
       Cao Đức Thịnh
       Cao Đức Vượng
       Cao Thị Mai
       Cao Đức Tuấn
Gia Phả; Cao ở làng Quan Xuyên
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Cao ở làng Quan Xuyên .
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Cao ở làng Quan Xuyên
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.