GIA

PHẢ

TỘC

NGUYỄN
-
ĐỖ
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
TỘC ƯỚC - GIA PHÁP

*
Vì yêu mến quê hương-đất nước, vì yêu thương giống nòi-dòng họ, vì muốn tôn
vinh sự nghiệp của Tổ tiên-Ông bà... Biết bao chữ VÌ thúc bách, con cháu động
viên, tự xét thấy mình tài sơ trí thiển, nhưng là điều ước mơ khát vọng to lớn
lâu nay, nay phải cố gắng hết sức vận động trí óc, sưu tầm tư liệu, tài liệu để
viết lên quyển GIA PHẢ tộc NGUYỄN - ĐỖ (Tiền hải - TB) này hầu mong truyền cho
thế hệ mai sau.


* Mục đích muốn nhắc nhở con cháu chúng ta sau này (không
phân biệt sang hèn, giai cấp, giới tính, tôn giáo ...) để biết mình từ đâu mà
có? Dòng họ bà con cuộc sống ra sao?



* Cùng nhau tuân thủ một vài điều ước định (tuy nhỏ nhưng xem
chừng cũng khó thưc hiện):

- ....

- Cố gắng gặp gỡ để khỏi quên nhau khi có dịp.

- Theo dõi và truyền bá tin tức của nhau, cho bà con biết lúc
cần.

- Đoàn kết giúp lẫn đỡ nhau theo khả năng, làm sáng danh dòng
họ.

- Lấy tinh thần TƯƠNG THÂN TƯƠNG ÁI làm phương châm xử thế.

- ....



* Những điều qui ước trên, cứ thế truyền mãi từ đời này đến
thế hệ mai sau, chắc chắn dù ở xa nhau, ta cũng có thể biết rõ được một phần
nào.



***** Con cháu ở xa thì nên lập bàn thờ vọng:



Chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa có nghi lễ nhất định,
mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu thế kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh
thuận tiện mà vận dụng:

- Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải về quê chính báo cáo gia
tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén
hương đang cháy giở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp.

- Nếu có nhà riêng, tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn
thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt
ở phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách.

- Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, thì phải đặt thấp hơn bàn
thờ gia thần một ít.

Đặt hướng nào? - Hướng về quê chính, để khi người gia trưởng
thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê.

(Thí dụ người quê miền Trung sống ở Hà Nội thì đặt bàn thờ
vọng phía Nam căn phòng hay ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong
buồng ngủ, trừ trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh
chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối đi).

- Đối với những gia đình ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ
quá thì không còn chỗ nào đặt được bàn thờ.

- Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hương đầu
giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, chẳng cần phải câu nệ
hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao.



***** Mấy đời tống giỗ...???



Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời
thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên
rồi đem ông mới mất mà thế vào thuần chủ ông khảo.

Thực chất chỉ có bốn đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông
bà (đời 3), cụ ông cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời). Cao hơn kỵ gọi
chung là tiên tổ, thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ
các đời vào chung một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề
là Hiền khảo, Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông
bà, đối thần chủ là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt
trưởng tiếp tục thờ cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ
kỵ là Hiền Cao tổ khảo (hoặc tỷ). Sau năm đời thì rước vào nhà thờ tổ rồi chôn
thần chủ đó đi. Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất
(thuỷ tổ hoặc tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là "Vĩnh thế
thần chủ".



Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên);
thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình).

Như vậy là có 4 đời làm giỗ (cao , tằng, tổ, phụ) tức là kỵ
(hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ.

Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không
cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.



***** Trưòng hợp chết yểu có cúng giỗ không...???



Có hai trường hợp:

1. Những người chết đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng
khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai, hoặc đã có con trai
nhưng ít lâu sau con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối
giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con
trai của anh hoặc em ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng
một phần hoặc toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì
con cháu người thừa tự đó tiếp tự.

2. Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18
tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin
phụ thờ theo tiên tổ (gọi chung trong các bài văn cúng các bậc tiên gia là: Phụ
vị thương vong tòng tự, không đặt linh vị từng vong hồn). Những người đó không
có lễ giỗ riêng, ai có cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng
xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống
trong gia đình. Điều này không có trong gia lễ nhưng thuộc vào tâm linh, niềm
tưởng vọng đối với thân nhân đã khuất.



***** Lễ cúng giỗ vào ngày nào?



- Lễ cúng giỗ vào đúng ngày mất hay trước ngày mất một ngày?
Có người cho rằng phải cúng vào ngày đang còn sống (tức là trước ngày mất), có
người lại cho rằng "trẻ dôi ra, già rút lại", vậy nên chết trẻ thì
cúng giỗ đúng ngày chết, còn người già thì cúng trước một ngày. Vậy có câu hỏi:
"Người trung niên chết thì cúng vào ngày nào"?

- Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ
niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.

Nguyên ngày trước, "Lễ Giỗ" gọi là "Lễ chính
kỵ": chiều hôm trước lễ chính kỵ có "Lễ tiên thường" (Nghĩa là
nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước.
Ngày xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai
lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có
những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên
thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được
buổi cày vừa hay bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ
tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận
việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược
đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một
vài nhà làm, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục
của địa phương.

- Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm
trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu
nướng và ra khấn ở mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về
nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên
thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện
hộ cho phong tục từng nơi.

- Kết luận: Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến
trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng
ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó.
                                                                                                                                                                                                                        Nguồn ST

Gia Phả NGUYỄN - ĐỖ
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc NGUYỄN - ĐỖ.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc NGUYỄN - ĐỖ
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.