GIA

PHẢ

TỘC

Phan
Long
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ

Phan Long Đóa


Căn cứ vào sách “Đại học sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên, “Lịch triều hiến chương” của Phan Huy Chú, “Chín đời Chúa 13 đời vua Nguyễn” – NXB Thuận Hoá- 1998, “Hùng Vương dựng nước” – NXB KHXH – 1973, … Đối chiếu với tộc phả họ Phan ở hai nhà thờ Hải Dương - Hải Phòng và Yên Thành - Nghệ An, … chúng ta có cơ sở khẳng định dòng dõi họ Phan ở Việt Nam có từ thời Hùng Vương thứ 18.


- Cứ liệu 1:


Theo sử liệu của đại học sỹ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất 1572 khớp với truyền thuyết ở Đình Xuân Phương – Hà Nội. Vua Hùng Vương thứ 18 đã gả cháu ngoại là bà Hoa Dung (con gái công chúa Ngọc Hoa) cho tướng quân Phan Tây Nhạc, người đất Ái Châu (tức vùng Sông Mã – Thanh Hoá). Theo truyền thuyết lúc ông Phan Tây Nhạc ra chiến trận đánh đuổi quân Thục, bà Hoa Dung đã tập họp phụ nữ nấu cơm thi để chọn người tài ra phục vụ ăn uống cho tướng sỹ. Sau khi dẹp yên quân giặc bà Hoa Dung đã dạy dân trồng bông dệt vải. Từ bao đời nay ở Đình Xuân Phương - Từ Liêm – Hà Nội, hàng năm đều tổ chức lễ hội tưởng nhớ Phan Tây Nhạc vào ngày 12 tháng Giêng –Âm lịch. Có thể hình thức ngày Hội nấu cơm thi ở Việt Nam cũng bắt nguồn từ truyền thuyết bà Hoa Dung.


- Cứ liệu 2:


          Tại nhà thờ họ Phan ở Hải Phòng, Hải Dương, quyển tộc phả ghi rõ: “Họ Phan ta là con cháu của Tất Công Tảo thời nhà Minh, nhà Thanh có ông Lệnh Công làm quan Thái Úy, ông đã dấy quân trừ Thanh diệt Minh. Nhưng do nhà Minh đã tận, ông cùng 7 người con về trú ngụ tại nhà họ Đoàn ở xã Quán Trang - huyện Kim Thành - tỉnh Hải Dương “ (trích nguyên văn quyển tộc phả thế hệ- Nhà số 2 Ngõ Cấm- Hải Phòng) và lấy chữ Phiên (Phan) làm họ. Chữ Phiên là chữ Thái trên chữ Điền, Thái Điền là ruộng lộc ở bộ tộc (lúc bấy giờ Phiên cũng là Phan). Chữ Phiên thêm 3 chấm thuỷ thành chữ Phan. Cho nên ông tổ họ Phan ở Hải Dương, Hải Phòng là ông Phan Lệnh Công tự Phúc Tín.


- Cứ liệu 3:


          Tại nhà thờ họ Phan ở Yên Thành - Nghệ An các câu đối ở hậu tẩm như sau:


Câu 1:           Thế phổ Thái Điền truyền Bắc địa


                                    Tướng môn lệnh trụ chấn Nam thiên.


Tạm dịch:      Giòng dõi Thái Điền truyền đất Bắc


                                    Tướng môn lệnh trụ chấn Nam thiên.


Thái Điền là ruộng lộc ở tiền nhân, dòng dõi Thái Điền là giòng dõi có công khai phá đất đai, dạy dân làm ruộng nước. Lệnh là ông Lệnh Công, ông tổ họ Phan ở Hải Phòng, Hải Dương là ông Phan Lệnh Công.


Câu 2:           “Thái Điền thị tự Tất Công, lưu phương thốn phổ


                                    Tùng Nhạc giáng vi Sùng Quận, ấm no cao muôn”


Tạm dịch:      Thái Điền từ một tổ Tất Công, tiếng thơm đời truyền mãi


                                    Tùng Nhạc đến đời Sùng Quận, ơn nặng cửa cao sang.


Từ những cứ liệu trên. Rõ ràng bà con họ Phan ở Yên Thành - Nghệ An có nguồn gốc từ Phan Tây Nhạc và Phan Lệnh Công. Vì vậy có thể ông Phan Tây Nhạc là người họ Phan đầu tiên ở Việt Nam. Hiện nay, ta có cơ sở dữ liệu để kết luận hai ông cùng một tổ nguồn gốc từ Giang Tây. Đến thời kỳ Lý Thái Tông 1036 đã đưa dân đồng bằng sông Hồng vào Nghệ Tĩnh và hình thành nhà thờ họ Phan ở Yên Thành. Thời kỳ nhà Trần 1225- 1400 đã hình thành chi phái họ Phan ở Đa Hoạch – huyện Yên Trung - Tỉnh Thanh Hoá và chi nhánh Phan Xá ở huyện Nghi Xuân - tỉnh Nghệ An. Như vậy là từ thời Lý - Trần - Hồ - Lê - Nguyễn đều có đưa người vào Nam định cư. Trong số đó có bà con họ Phan và từng bước hình thành các chi phái họ Phan khắp mọi miền đất nước như hiện nay.


II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DÒNG HỌ PHAN LONG Ở THANH SƠN - PHỔ CƯỜNG – ĐỨC PHỔ – QUẢNG NGÃI:


1. Sự hình thành:


          Theo biên bản họp họ tộc năm Bảo Đại thứ 9 (1934) do cụ Phó Tổng Đoàn Phan Long Liêu (cha cụ Phan Long Liển) chấp bút bản chữ Nho. Cụ Phan Long Cẩn (cha cụ Phan Long Ngưỡng) chấp bút bản Quốc Ngữ. Phần đầu đã sơ lược di chúc của Cao Tổ Phan Long Đoá được sao chép năm Cảnh Hưng 37. Như vậy có thể cao tổ họ Phan Phan Long Đoá vào định cư lập nghiệp một trong hai giai đoạn lịch sử thời Chúa Nguyễn:


- Một là thời Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan 1635-1648). Thời kỳ này Đàng Trong rất thịnh vượng. Sau khi đánh bại thuyền quân Ô Lan (Hà Lan) xâm phạm vùng cảng Thuận An năm 1644. Chúa Thượng cùng con là Nguyễn Phước Tần đem quân ra kháng địch với quân Chúa Trịnh, thắng to ở vùng Bắc Bố Chánh. Sau đó Chúa Thượng đã đưa 3 vạn người từ phía Bắc vào định cư khai khẩn từ Quảng Nam đến Phú Yên (trang 27 - “9 đời chúa 13 đời Vua Nguyễn”).


- Hai là thời Chúa Hiền (Nguyễn Phước Tần 1648-1687). Những năm 1655-1660 Trịnh Nguyễn đánh nhau liên tục, có lần quân Nguyễn đã chiếm 7 huyện Nam Bắc sông Lam và đưa người vào Nam lập nghiệp (trang 31 sách “9 đời Chúa 13 đời Vua Nguyễn”).


Cao tổ Phan Long Đoá định cư phát triển cơ nghiệp ở Thanh Sơn - Phổ Cường có 5 người con (4 trai + 1 gái). Gần cuối đời cụ đã tạo cơ nghiệp cho 4 người con trai. Riêng người con gái là Phan Thị Nghĩa ăn học uyên thông, nhưng không có chồng con. Di chúc của cao tổ đã để 2 đám ruộng làm ruộng thờ cúng (hương hoả). Riêng phần ruộng của bà Phan Thị Nghĩa, bà cũng để di chúc là ruộng họ. Tổng cộng cả ruộng bà và ruộng hương hoả là 16 sào. Trưởng nam của cụ Phan Long Đoá là cụ Phan Long Trinh, nhưng vì không con nên đến thế hệ sau là trưởng nam cụ Phan Long Thiêm là Phan Long Ký làm trưởng tộc lo giỗ cúng tại nhà thờ hàng năm. Riêng 2 đám ruộng Bà Nghĩa, ai quản lý canh tác thì hàng năm cúng một con heo vào ngày giỗ Bà ở nhà thờ Họ.


Cuối thế kỷ 19 (từ thế hệ thứ 4) đã hình thành 4 chi phái họ Phan Long , 3 chi phái ở Thanh Sơn, một chi phái ở Bàn Thạch (theo tờ Tôn đồ thế hệ bằng chữ Nho cụ Phan Long Điểm lưu).


 

Gia Phả Phan Long
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Phan Long.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Phan Long
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.