Con ngöôøi coù toå coù toâng
Nhö caây coù coäi, nhö soâng coù nguoàn…
Là con người Việt Nam dù sinh ra và lớn lên từ môi trường xã hội nào, cũng mãi mãi khắc ghi lời ru trìu mến:
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Xuất phát từ tâm thức tư tưởng ấy mà gia đình Việt Nam nào cũng giành vị trí trang nghiêm lập bàn thờ tưởng nhớ công ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Nguồn tình cảm gia đình quê hương, dân tộc đã gắn kết thành sức mạnh truyền thống yêu quê hương đất nước bất khuất trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Trãi qua mấy ngàn năm lịch sử, tổ tiên ông cha ta (trong đó có dòng họ Phan trong cộng đồng các dân tộc VN) đã đoàn kết vượt qua biết bao gian khổ hy sinh, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, đánh bại các thế lực xâm lược, dẹp yên các nạn cát cứ chia rẽ dân tộc,… để bảo tồn và phát triển dòng giống Lạc Hồng Việt Nam độc lập, thống nhất, đã và đang phát triển rạng rỡ như hôm nay,….Vì vậy, việc tôn vinh lịch sử truyền thống dân tộc, quê hương, họ tộc trở thành một nhu cầu thiết thực cho đời sống hiện tại và cho các thế hệ mai sau.
Quá trình phát triển các dân tộc Việt Nam nói chung cũng như dòng họ Phan nói riêng, trãi qua các giai đoạn lịch sử, với nhiều nguyên nhân khác nhau: Do du canh du cư, do hỗn huyết với các họ tộc, với dân bản địa và do các nguyên nhân chính trị xã hội khác mà có người sau khi sinh cơ lập nghiệp đã thay chữ lót (hoặc có người thay cả họ), rồi sinh con đẻ cháu hình thành các chi nhánh họ Phan ở các vùng miền khác nhau thành Phan Long…; Phan Văn…; Phan Thanh…; Phan Minh…
Căn cứ vào bản chữ Nho trích sao di chúc của cụ Cao tổ Phan Long Đoá (ngày 17 tháng chạp năm Cảnh Hưng 37). Vì vậy, có thể cao tổ Phan Long Đoá từ Nghệ Tĩnh vào định cư lập nghiệp cuối thời Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648). Thời kỳ này Chúa Nguyễn đã đưa gần 3 vạn người từ đàng ngoài vào định cư lập nghiệp từ Quảng Nam đến Phú Yên ( theo sách 9 đời Chúa 13 đời Vua Nguyễn trang 27). Hoặc có thể Cao Tổ vào Nam thời Chúa Hiền (Nguyễn Phước Tần (1648-1687) có lúc Chúa Nguyễn đã chiếm 7 huyện Nam Bắc sông Lam và đưa người vào Nam định cư lập nghiệp (trang 31 sách đã dẫn).
Từ lúc cao tổ Phan Long Đoá vào khai khẩn lập nghiệp ở Phổ Cường đến nay đã trên 300 năm, dòng dõi Phan Long đã trãi qua 9 đời (tính đến đời con tôi). Thông thường các gia phả cũng theo “ Ngũ đại đồng đường”, các ông bà trên 5 đời đều được qui tụ về nhà thờ Họ. Qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bà con họ tộc tuy phải bám trụ sống trại ngủ hầm, vẫn duy trì hương khói thờ phụng tổ tiên. Một số bà con Phan Long tuy phải di trú sinh sống xa quê, nhưng từng khu vực đều giữ mối liên kết bà con Họ tộc đùm bọc thương yêu nhau.
Sau ngày 30-04-1975 bà con gần xa mới có điều kiện gặp nhau đầy đủ, giỗ Họ hàng năm. Đến năm Canh Ngọ 1990 bà con thống nhất góp công sức trùng tu nhà thờ Họ và hình thành Hội đồng gia tộc:
1. Cụ Phan Long Liễn - Chủ tịch Hội đồng gia tộc.
2. Ông Phan Long Liêm (Trưởng Họ) – Phó chủ tịch Hội đồng gia tộc.
3. Ông Phan Long Chanh (Công Chánh) – Phó CT Hội đồng gia tộc.
4. Ông Phan Long Tám - Thư bổn
Mỗi khu vực, chi phái cử 1-3 người làm thành viên Hội đồng gia tộc.
Ở Võ Su - Đức Linh – Bình Thuận:
5. Ô. Phan Long Đường.
6. Ô. Phan Long Bưởi.
7. Ô. Phan Long Tài.
Ở TP. Hồ Chí Minh:
8. Ô. Phan Khánh Thoại.
Ở TP. Nha Trang:
9. Ô. Phan Long Sáu.
Ở Đức Nhuận - Mộ Đức - Quảng Ngãi:
10. Ô. Phan Long Báu.
11. Ô. Phan Long Liêm.
12. Ô. Phan Long Trang.
Ở TP. Quảng Ngãi:
13. Ô. Phan Long Châu.
14. Ô. Phan Long Phương.
Ở Bàn Thạch - Phổ Cường - Đức Phổ - Quảng Ngãi:
15. Ô. Phan Long Hội.
Từ năm 1990 đến nay, sau khi có sơ thảo phả tộc, bà con nội ngoại trong Họ, người làng đều nhiệt tình đóng góp xây dựng. Cụ Phan Long Cừu (Ông Điểm) cung cấp bản sao gia phả, viết năm 1930 bằng chữ Nho trên tờ giấy bổi. Cụ Phan Long Ngưởng ở Võ Su cung cấp 2 biên bản họp Hội đồng gia tộc năm 1934. Hội đồng gia tộc đã nhận thư của Ông Phan Văn Quán 146 Điện Biên Phủ - Q.1 – Tp.HCM, thư và danh sách bà con Phan Long ở Nha Trang của Ông Phan Long Sáu. Đặc biệt, nhà thờ Họ Phan ở TP. Hồ Chí Minh đã gởi quyển sơ thảo “Họ Phan trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của nhà sử học Phan Tương.
Từ các tài liệu có được, kết hợp sưu tầm đối chiếu các sách sử liệu. Hội đồng gia tộc đã hoàn chỉnh sơ thảo Gia phả họ Phan Long …. Vì các bút tích còn lại quá ít, nhất định không sao tránh khỏi các khiếm khuyết. Rất mong sự đóng góp ý kiến các nhà sử học và bà con nội ngoại trong Họ, người làng.
Quảng Ngãi, tháng 10 năm 2007
TM HỘI ĐỒNG GIA TỘC