GIA

PHẢ

TỘC

Họ
Trương
Văn
Chúng
-Trương
Đình-Trương
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
Một gia phả hoàn chỉnh bao gồm những phần sau đây

Trước hết, phải có thông tin về người sao lục (biên soạn ) là ai, tên gì, thuộc đời thứ mấy, triều vua nào, năm nào… và tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú ro ràng.
Tiếp theo, là phả ký hay là gia sử. Nêu nguồn gốc xuất xứ của gia tộc.
Tiếp theo, là Thuỷ tổ của dòng họ.
Sau đó, là từng phả hệ phát sinh từ Thuỷ Tổ cho đến các đời con cháu sau này. Đây là phần quan trọng nhất của gia phả. Có phần phả đồ, là cách vẽ như một cây, từng gia đình là từng nhánh, từ gốc đến ngọn cho dễ theo dõi từng đời. Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?
Ngày tháng năm sinh (có người c?n ghi được cả giờ sinh).
Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?).
Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị g´? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị g´? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì. Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên mười trang)
Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất... Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên. Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú con con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xa, họ hàng, xóm giềng... Những lời dạy bảo con cháu đời sau ( di huấn), những lời di chúc…
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác. Phần này còn gọi là ngoại phả.
Tiếp theo, là tộc ước. Đây là những quy định-quy ước trong tộc họ, đặt ra nhằm ổn định tộc họ, có công thưởng, có tội phạt , tất nhiên là phải phù hợp với luật pháp chung.
Với một tộc họ lớn, có thể có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này sẽ ghi những thông tin chi phái, ai là bắt đâu chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi…
Những thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ các khu mộ tiền nhân v.v.
Cô Bác Anh chị Em và các cháu biết bổ xung cho. Trương Bá Quốc DT -84983835389 ghi lại daphudalat@gmail.com  truongbaquocdl gmailGia phả: Có thể gọi là Tông Chi Phả là chi tộc nhỏ trong một Dòng tộc của một Gia phả lớn có thể gọi là Tộc phả. Tông Chi Phả là mấu chốt của một Gia đình, một Họ...Tuy nó không đủ mọi chi tiết nhưng nó cung cấp cho ta biết từ bậc Ông Bà, Cha Mẹ đến con cháu một giai đọan để có đủ tài liệu về tiểu sử lý lịch của mỗi cá nhân : ngày tháng năm sinh, nơi sinh (sinh quán) sống chết, nghề nghiệp, địa chỉ (trú quán)...Ngoài ra còn nhiều vấn đề như: Học vấn, thành tích.. của mỗi người trong gia đình đó đã đóng góp liên quan đến xã hội đến sự hưng vong của Gia đình, Tổ tiên, Dân tộc và Quốc gia...Ảnh hưởng chung đến các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán trong xã hội...Tại Việt Nam, gia phả sơ giản ghi chép tên cúng cơm, ngày giỗ và địa điểm an táng của ông cha. Theo các nhà sử học phỏng đoán thì gia phả đã xuất hiện từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn tức là từ thời Lý Nam Đế (khoảng nǎm 476-545). Nhưng phải đến thời nhà Lý, nhà Trần mới xuất hiện những cuốn tộc phả, thế phả (ghi cả thế thứ, tông tích toàn họ), phả ký (ghi lại hành trạng, sự nghiệp của tổ tiên).Người Việt chúng ta đã lâu đời bị ảnh hưởng nền văn hóa Trung hoa sâu đậm nên việc lập Gia phả xa hơn nữa là Tộc phả để biết Tổ tiên Dòng tộc, họ hàng anh em bà con xa gần để còn nhận biết nhau tránh cho anh em con cháu khỏi cưới hỏi lẫn nhau và tránh được nhiều điều đáng tiếc trong Gia tộc.Anh em cùng dòng máuĐánh nhau vỡ cả đầuNgờ đâu cùng dòng họLúc đó mới nhận nhau.Quan trọng hơn nữa để mọi thành viên trong Gia đình Dòng tộc biết đến mồ mả Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ...Để tỏ lòng hiếu nghĩa, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục, hương khói cúng giỗ, cầu hồn, xây đắp sửa sang mồ mả hàng năm...Ăn cá ao phải nhớ kẻ đào“Ăn cây nào phải rào cây ấy.Ăn quả nhớ kẻ trồng cây“Uống nước phải nhớ bởi đây có nguồn.Vậy Gia phả là quyển sách, quyển tập ghi chép tên tuổi, kỷ sự (tiểu sử thu gọn), ghi ngày sanh, ngày tử, vị trí phần mộ và ngày lập mộ (đã chết)…của từng người trong họ, theo thứ tự các đời.Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh định nghĩa gia phả là: “Sách ghi thế hệ trong họ và lịch sử tổ tiên”.Người Trưởng Tộc và Trưởng GiaViệt Nam cũng như các nước ở Đông nam Á Châu thường theo chế độ Phụ hệ (trọng Nam khinh Nữ) Người Nam là rường cột của Gia đình, Dòng tộc và Quốc gia nên có trách nhiệm gánh vác việc Gia đình, Quốc gia đại sự. Trong một Gia đình có Trưởng gia, một Dòng tộc thì phải có một Trưởng tộc để lo điều hành mọi việc trong Gia đình, Dòng tộc : Quản trị tài sản và bất động sản...Gọi là của Hương hỏa (Hương khói, nhang đèn) . Hương hỏa gồm có ruộng đất nhà cửa và kim ngân...(Di chúc phả) Do Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ tiên để lại cho con chắu từ đời này đến đời khác để dùng vào việc: Xin lễ, cúng giỗ, xây cất bảo quản mồ mả cho Dòng họ hàng năm còn để giúp đỡ các con cháu, bà con trong Dòng họ khi gặp hoạn nạn nghèo đói, ma chay, cưới hỏi . Lập và bảo quản Tộc phả và Di chúc...Mỗi thế hệ Trưởng tộc đang giữ Tộc phả phải ghi lại tất cả những cảm nhận của mình về cuộc sống ở những đọan đời khác nhau trong suốt thời gian mà mình chịu trách nhiệm. Với những thành công của con cháu, đồng thời kèm một số hình ảnh để các thế hệ sau có thể thấy được các sinh hoạt của các thế hệ trước đã làm ... Người Trưởng tộc được nối tiếp từ đời này đến đời khác, thưòng được giao cho người con trai Trưởng nam (con trai đầu) Ông, Bà gọi là cháu Đích tôn (cháu Nội trai của con Trưởng nam) nếu bất khả thi có thể chọn con trai Trưởng nam của con trai kế (Thứ nam) hoặc trong Dòng tộc chọn một người có khả năng và điều kiên thích hợp.Trưởng Nam và cháu Đích Tôn có Bổn phận gánh vác bảo tồn Phả Gia.Sau Trưởng tộc là các Trưởng gia có nhiệm vụ góp công sức, tài chánh...Cùng chung với Trưởng tộc để điều hành mọi công việc trong Dòng tộc. Lập sổ Gia phả (Tông chi phả) riêng cho Gia đình mình một cách đầy đủ và chi tiết cung cấp cho Trưởng tộc để lập thành một Gia phả lớn (Tộc phả) cho Dòng tộc.Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì?xem tuongGia Phả là gì? Hình thức lập Gia Phả và Tộc phảGia phả được coi là hoàn chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương có ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nào, triều vua nào, căn cứ vào bản nào, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng. Đầu gia phả có lời tựa ghi được nguồn gốc xuất xứ của thủy tổ có cứ liệu thành văn hay truyền ngôn.Mở đầu là thuỷ tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh. Đối với tiền nhân có các mục sau đây:Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?).Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên mười trang)Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất...Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng...Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ, đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sauNội dung gia phả gồm có:Chính phả: có phả ký, phả hệ và phả đồ.Ngoại phả: ghi nhà thờ tổ, việc cúng bái, văn khấn, ghi khu mộ, ghi danh sách học vị các thành viên đỗ đạt, ghi tiểu sử một số thành viên nổi bật, ghi quan hệ hôn nhân cưới gả với dòng họ nào….Phụ khảo: ghi địa chí xóm ấp, đình miếu, chợ búa, bến đò….Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng. Phải công phu, nghiêm túc trong việc dựng phả. Gia phả là tư liệu quí giá cho dòng họ, nhà sử học, dân tộc học.Hôn-Lễ ( Lễ Cưới ) Xưa gọi là Hôn-Lễ, vì nó có ý nghĩa riêng, vì theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối. Buổi chiều tối là lúc Dương qua Âm lại, âm dương giao hoán với nhau được thuần, cho nên dùng giờ này để làm Hôn-Lễ, tức là thuận theo lẽ tuần hoàn của trời đất. Theo xưa thì có 6 lễ, phân ra như sau : 1. Vấn danh ( hay là cầu thân ) 2. Sơ vấn ( hay là lễ sỉ lời ) 3. Ðại đăng khoa ( lễ đám hỏi ) 4. Sỉ lời ( tức là lễ hỏi thăm nhà gái đòi hỏi những lễ vật, tiền nong thế nào ) 5. Lễ nạp tài và thăm con dâu Lễ tiểu đăng khoa ( tức là lễ cưới ) Theo như 6 lễ cưới hỏi, muốn nói cho có văn vẻ thì có 6 lễ như sau : 1.- Lễ Nạp Thái 4.- Lễ Nạp Chưng hay là Nạp Lệ2.- Lễ Vấn Danh 5.- Lễ Thỉnh Kỳ3.- Lễ Nạp Cát 6.- Lễ Thân Nghinh1.- Lễ Nạp Thái Theo tục lệ Trung Hoa thì sau khi nghị hôn rồi, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn". Sở dĩ đem chim nhạn là vì chim nhạn là loài chim rất chung tình, không sánh đôi hai lần. Tương truyền rằng loài chim nhạn rất thảo ăn, khi chúng nó gặp mồi thì kêu nhau ăn chung, vừa lúc đẻ trứng thì khi nở thế nào cũng có một con trống và con mái mà thôi. Khác với các loại chim khác, chim nhạn khi có một con chết thì một con còn lại cũng buồn rầu mà chết theo. Sau này, người Trung Hoa nào còn theo cổ lễ thì chỉ dùng ngỗng thay thế cho chim nhạn. (Loài ngỗng tuy ngông nghênh, nhưng rất chung tình). 2.- Lễ Vấn Danh Là hỏi tên và họ của cô gái là gì, được bao nhiêu tuổi, đã có hứa hôn với ai chưa. 3.- Lễ Nạp Cát Là sắm sửa lễ phẩm đem sang nhà gái cầu hôn. Tùy theo nhà giàu thì lễ quí, còn nghèo thì chút đỉnh gọi là. 4.- Lễ Nạp Chưng Lễ Nạp Chưng hay là Lễ Nạp Tệ ("chưng" nghĩa là chứng, "Tệ" nghĩa là lụa) là lễ đem hàng lụa hay vật phẩm quí giá đến nhà gái làm tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn, rồi chỉ chờ ngày cưới dâu. 5.- Lễ Thỉnh Kỳ Là Lễ xin định ngày giờ làm Lễ Cưới, nhưng ngày giờ cũng do bên trai định, rồi hỏi lại ý kiến bên gái mà thôi, song thế nào nhà gái cũng tùy ý bên trai. 6.- Lễ Thân Nghinh Là đã được nhà gái ưng thuận, ngày giờ đã định của bên trai. Bên trai đem lễ vật sang làm lễ rước dâu về. Ðây là hoàn toàn sáu lễ theo tục lệ xưa mà ngày nay đã gia giảm bớt rất nhiều.Hôn-Lễ ( Lễ Cưới ) ________________________________________ Xưa gọi là Hôn-Lễ, vì nó có ý nghĩa riêng, vì theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối. Buổi chiều tối là lúc Dương qua Âm lại, âm dương giao hoán với nhau được thuần, cho nên dùng giờ này để làm Hôn-Lễ, tức là thuận theo lẽ tuần hoàn của trời đất. Lượt truy cập: 1438 Lễ Cưới Ngày Xưa ________________________________________ Trước khi làm Lễ Cưới phải đến sở tại, biên tên họ hai đàng sui gia và chàng rể, nàng dâu, tại văn phòng chánh lục bộ (trình bát nhựt) bây giờ thì gọi là Uỷ viên Hộ tịch. Lượt truy cập: 651 THƠ TÍCH TRẦU CAU ________________________________________ THƠ TÍCH TRẦU CALễ Cưới Ngày Xưa Sau khi làm lễ ăn hỏi rồi chừng năm ba tháng thì bên sui trai chọn ngày làm lễ cưới, gọi là lễ Tiểu Ðăng Khoa. Trước giờ làm lễ cưới thì có một lễ gọi là Lễ Viếng Sui và Thăm Dâu, lễ này đơn giản chỉ có ông mai và hai vợ chồng sui trai, cũng gọi là lễ sỉ lời lễ cưới. Lễ này, bên sui trai có cho cô dâu đồ nữ trang nhiều hay ít tuỳ theo khá giả thì khác hơn nhà nghèo, tuỳ phương tiện mà cho nàng dâu chút ít nữ trang. Bên nhà gái cho bên nhà trai sẽ đòi những lễ vật như thế nào, rồi đàng trai cho bên nhà gái biết ngày giờ sẽ làm lễ cưới dâu về nhà trai.Ông bà ngày xưa xem ngày cẩn thận, xem trong sách Ngọc Hạp và Thông Thơ, rồi tra lại ngày giờ trong lịch Ðại Bản, chọn được những ngày Nhân Chuyên, Sát Cống và Bất Tương mới làm lễ cưới. Trước khi làm Lễ Cưới phải đến sở tại, biên tên họ hai đàng sui gia và chàng rể, nàng dâu, tại văn phòng chánh lục bộ (trình bát nhựt) bây giờ thì gọi là Uỷ viên Hộ tịch. Hội đồng xã dán bố cáo nơi trụ sở 10 ngày, sau khi hai đàng làm lễ cưới. Sự trình khai như vậy để đề phòng có ai ra ngăn cản gì không và cũng chứng tỏ cuộc hôn lễ ấy được trong sạch hoàn toàn, bên trai và gái vẹn toàn tiết hạnh. Lễ Cưới - chàng rể mặc áo rộng xanh, bịt khăn đen, có che lộng. Còn nàng dâu cũng mặc áo rộng, đội nón thúng, cũng có lộng che, ở Nam Việt còn gọi là "nón cụ quai tơ" và khảm vàng xanh quai. " Còn duyên nón thúng, quai thau khảm vàng " Lễ vật chánh gồm có một đôi đèn, khay trầu, rượu, lễ này có sáu miếng trầu và sáu miếng cau.(có ý nghĩa là đủ sáu lễ). Ðôi mâm trầu, một ché rượu, nhưng ở bên nhà gái cầu kỳ muốn đòi một con heo cưới, và nài phải đi hôm ấy, thì bên nhà trai phải đóng củi khiên đi theo với họ đàng trai, trong khi làm lễ rước nàng dâu; mâm trầu cũng có hai người khiêng, ché rượu cũng có hai người khiêng. Còn như đàng trai điều đình thế tiền con heo cho bên nhà gái thì hôm ấy khỏi phải khiên con heo trong củi. Vì sao mà nhà gái cầu kỳ như vậy ? Vì bên nhà gái chứng tỏ rằng nhà gái cũng đủ sức mua heo để thết tiệc, chứ không phải thiếu thốn chi, nhưng theo lễ thì phải có. Về sau này, người ta nhận thấy sự khiêng heo đi bất tiện, nên người ta điều đình thế tiền (tục lệ này bãi bỏ từ hơn 60, 70 năm nay). Lễ Cưới ở nước ta tuy hiện là đời mới, nhưng lễ chánh là trầu cau và đôi đèn là cần lắm. Ngày xưa bên nhà trai mang sang nhà gái một đôi đèn để làm lễ Từ Ðường, thì bên nhà gái cũng sắm sẵn đôi đèn hẳn hoi để đáp lại, gọi là cặp đèn "Tống Hôn". Nếu hai bên sui gia thuộc hạng sang trọng thì bên nào cũng cố gắng làm một cặp đèn cho tuyệt đẹp, có bông hoa rất là thẩm mỹ. Lễ Cưới thì bên trai tuỳ theo nhà gái như đủ phương tiện thì người đi rước dâu đông đảo lắm, và cũng liệu đường đi xa thì có dùng tiệc bên nhà gái. còn như ở gần thì bên trai xin để uống nước rồi rước dâu. Bên sui trai cũng muốn đãi nhà gái bữa tiệc ấy cho đúng đắn đầy đủ sự trọng vọng và thân tình. Nếu như bên trai có nhiều bà nhiều cô khéo léo, thì hôm ấy là buổi thi đua nấu nướng những món ngon vật lạ, bánh trái ê hề. Có nhiều nhà giàu hồi xưa "vắt chảy ra nước", thường thường cho những bạn bè ăn những cơm hẩm canh dư, năm giờ sáng đã ra đồng cuốc đất, sáu bảy giờ tối mới về đến nhà mà chưa rồi công việc, chớ trong mấy ngày này cũng được no nê thả cửa. Ý NGHĨA CHE "LỌNG" Ðám cưới, đám hỏi hồi xưa mà che lọng là để che lễ phẩm, tỏ ý trịnh trọng cuộc lễ ấy có ý nghĩa trang nghiêm tạo thành gia thất rất quan trọng, chớ không phải che cho cá nhân của người đi cưới vợ. Vì hồi xưa, nước VN còn chế độ quân chủ, từ bậc vua chúa cho đến vương hầu và quan đại phu mới được đi lọng. Còn bậc tu hành thì từ bậc hòa thượng sắp lên cũng được che lọng trong những cuộc lễ long trọng. Như đám ma thì bực có chức tước mới có chưng lọng. Ở làng xã thì từ bực chủ cả, chủ sắp lên khi chết mới được chưng lọng. " Lọng che sương dầu sườn cũng lọng, "" Cái ô bịt vàng đầu trọng cũng ô. " THƠ TÍCH TRẦU CAU Có hai anh em giống nhau Giống cho đến đổi chị dâu phải lầm Người em thấy vậy thương tâm Bỏ đi rủi bị cõi âm hồn về Thấy em mất anh thảm thê Ði theo đến đó hôn qui diêm đài Vợ chồng đi kiếm tới nơi Hỏi ra sự tích thảm thê vô cùng Truyền rắng trong cuộc hôn nhân Trầu Cau dùng lễ nghĩa nhân mới nồng LÊN ÐÈN Thường thường, để lên đôi đèn Ðám Cưới hay Ðám Hỏi người ta hay cậy người có tuổi đủ vợ đủ chồng, con đông thì quí... RÓT RƯỢU Rót rượu trong chung hay trong ly để cúng quải, hay là trình lễ, nếu như tay nào sành rượu và được thứ rượu đế chánh cống, khéo tay rót chầm chậm và có đóng bọt đều đều thì hay lắm ! ÐẦU HEO VÀ NỌNG HEO Khi nói về lễ cưới mà không nhắc đến " Ðầu heo " thì thật là thiếu sót ! Theo tục lệ nào thì cũng có làm heo, nhà giàu sang thì làm thêm cả bò to, nhưng rất kỵ là không khi nào họ làm dưa giá, vì sợ chuyện góa bụa sau này của đôi lứa. Về con heo thì bữa chiều nhóm họ bên trai, thì kiến Ông Mai cái đầu heo và dĩa lòng bộ, Ông Mai nào cũng tỏ ra mình không thèm nhận lễ ấy, và cũng không chú rể nào dám bưng cái lễ ấy trở vào nhà bao giờ. Nghĩa là Ông Mai phải nhận cái đầu heo ấy... Còn cái nọng heo thì kiến lễ Ông Thầy xem tuổi và xem ngày cưới. Cũng có dĩa lòng bộ, có ông thì chỉ nhận dĩa lòng bộ, còn cái nọng heo thì xin kính lại để đãi đằng khách khứa, nếu như ông ấy nhận hết thì thôi. Cái lễ chót của người đi cưới vợ mà đi lễ Ông Mai lần này là lần cuối cùng, và cũng từ đây người ta bắt đầu quên hẳn Ông Mai... LỄ NHỊ HỈ Lễ nhị hỉ là qua ngày sau lễ cưới, sáng sớm đôi vợ chồng sửa soạn đi trở về bên nhà gái. Thường thường nhà trai gửi qua nhà gái một cặp và lít rượu, cùng là trà bánh do con dâu mang đi cùng với chàng rể trở về nhà bên vợ. Khi đến nhà vợ thì cũng có nấu nướng và mời bà con láng giềng dự tiệc. Theo như lễ này có ý nghĩa rất hay, vì chàng rể chưa được quen thân với bà con cô bác bên vợ, cho nên có lễ này để cho chàng có dịp làm quen với thân nhơn bên vợ; và giở mâm trầu cau của bên trai đưa sang hôm làm lễ cưới. Sau khi giở mâm trầu thì chính cô dâu đi biếu trầu cau cho bà con cô bác bên nàng và tỏ lời cám ơn những người đã có công giùm giúp trong những ngày nàng sửa soạn vu quy. Sau khi đi biếu trầu cau và cơm nước xong rồi, thì chiều lại chàng và nàng trở về bên nhà chồng; chàng đi trước nàng đi sau, thỉnh thoảng chàng quay lại nhìn nàng bằng đôi mắt yêu thương nồng thắm... Nếu như bên chàng và nàng là nhà khá giả thì cũng được thong thả hưởng tuần trăng mật. Nhưng không có đi xa như Ðà Lạt, Nha Trang như thời đại bây giờ, mà chỉ dành thì giờ đi thăm bà con hai bên đều đủ. Còn như nghèo, thì phải lo làm việc để trả nợ nần vay mượn trước khi làm lễ cưới. Theo đúng lễ thì có cả Ông Bà sui trai và Ông Mai đi dự lễ nhị hỉ để giở mâm trầu, mà chính tay Ông Mai là người giở mâm trầu ấy. Sưu tầmNhững nghi thức khi rước dâu Thắp hương giường thờ: Họ nhà gái mời nhà trai vào nhà. Nhà trai cho đặt đồ lễ lên giường thờ (ngày xưa người ta thờ trên giường không phải trên bàn hay trên tủ như bây giờ). Và ngày nay khi đàng trai được mời vào nhà, các chú rể phụ hay những người bưng phụ đồ lễ vật đứng dàn hàng ngang trước mặt các cô dâu phụ hay các thiếu nữ bên nhà gái, cũng đứng hàng ngang đối diện để trao những mâm hay quả tráp lễ vật.Các cô này đem lễ vật vào đặt trên bàn có thứ tự trước bàn thờ gia tiên. Lúc này nhà gái kiểm điểm lại đồ thách cưới, tuy một phần đã được nhà trai đưa qua từ những hôm trước để tiện nhà gái làm cỗ đãi cho họ hàng (ngày nay lễ vật không đưa sang nhà gái trước nhưng nhà trai khi trình lễ vật, phải nói mấy lời cùng nhà gái lễ vật gồm những thứ gì).Chính người chủ hôn nhà trai giở nắp quả tráp hay khăn đỏ phủ lễ vật ngay sau lời mở đầu buổi lễ xin phép, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên. Không phải ai cũng có thể thắp nén hương trong trong ngày lễ cưới được. Hương phải do bố, anh trai hoặc em trai cô dâu thắp. Nếu là anh trai hoặc em trai cô dâu thắp hương, nhà trai lại phải tặng một món tiền gọi là tiền thắp hương. Tất cả nhưng sự khó khăn nhà trai phải vượt qua từ lúc chăng dây cho đến khi hương được thắp trên giường thờ, tục lệ đặt ra để chứng tỏ nhà trai không nề hà trong sự khó khăn để đón dâu, và cũng chứng tỏ sự thiết tha yêu thương vợ của chú rể. Lễ gia tiên và lễ mừng: Chú rể vào lễ bàn thờ gia tiên nhà vợ bốn lễ rưỡi, sau đó cô dâu cũng lễ theo. Ngày nay, cô dâu và chú rể cùng làm lễ một lược, theo thể thức chú rể "bái gối" và cô dâu ngồi vẹt, tuy vậy mỗi lần chú rể bái, cô dâu chờ động tác cho nhịp nhàng. Lễ gia tiên xong, cô dâu và chú rể phải ra lễ mừng bố mẹ vợ. Ngày nay cô dâu và chú rể lạy bố mẹ ngay liền trước bàn thờ gia tiên, thường được cha mẹ cho hỉ xả, nghĩa là cho miễn thủ tục này để tỏ lòng yêu thương, rộng lượng. Chàng rể lễ mừng bố mẹ vợ để tạ công ơn nuôi dưỡng vợ mình, còn cô dâu lễ mừng cũng có ý nghĩa tạ ơn cha mẹ tác thành lương duyên giai ngẫu cho mình. Khi chàng rể mừng lễ, bố mẹ vợ thường cho tiền hay vàng bạc. Các người phù rể sẽ nhận hộ chú rể. Có nhiều người có tính khoe khoang thường nhân dịp này cho chú rể nhà cửa, ruộng nương bằng cách trao cho văn tự hay địa đồ. Ngày nay, sự việc có thay đổi. Trong lễ này bố mẹ vợ không cho tiền. Nếu cho tiền thì cho cô dâu ngay đêm trước ngày vu quy. Tại buổi lễ có thể người cha vợ quyết định cho lại vợ chồng một số tiền đồng hay là tiền chợ mà đàng trai trao cho nhà gái khi trình lễ vật. Bà mẹ cũng nhân dịp này trao cho con gái mình một vài món nữ trang, ngoài tính cách khoe khoang còn ngụ ý rằng "đây là của riêng con gái do bà mẹ tằn tiện để dành cho, chỉ được sử dụng khi nguy cấp để bảo hộ thân". Lễ mừng cha mẹ xong, chàng rể được người trong họ nhà vợ dẫn đi lễ mấy nhà thờ chính của họ nhà vợ, có mấy chàng phù rể đi theo. Cũng có nơi, chàng rể phải đi lễ nhà thờ trước rồi lúc trở về mới làm lễ mừng bố mẹ vợ. Sau khi chàng rể làm lễ đủ mọi nghi thức xong rồi, nhà gái mới mời nhà trai uống nước ăn trầu và hai họ chúc tụng cô dâu chú rể. Thường nhà gái làm cỗ mời nhà trai. Trong bữa cỗ này, chú rể vì giữ lễ hoặc vì sung sướng quá nên ăn uống rất e dè từ tốn, có khi không dám ăn vì sợ họ nhà vợ chê cười. Ngày nay, ở miền Nam, theo khuôn phép gia đình nề nếp, chú rể và cô dâu không ngồi vào bàn trong các tiệc đãi mà phải đưa nhau đi từng bàn mời khách đôi bên mà cũng là dịp để nhận biết rõ những người thân thuộc. Họ nhà trai ngồi lại họ nhà gái cho đến lúc được giờ tốt, giờ hoàng đạo, cụ già chủ hôn xin với nhà gái cho rước dâu. Cô dâu lúc này đã y phục chỉnh tề, trang điểm với mọi nữ trang của mình cùng với những đồ dẫn cưới trước, đựng trong chiếc rương phủ nhiễu điều. Họ nhà gái có một số người đi theo cô dâu, trong đó có các cô phú dâu. Các cô phù dâu đã được tuyển lựa trong số các thiếu nữ chưa lập gia đình cũng như các phù rể đều là các chàng trai chưa vợ. Đây cũng có ý nghĩa là dịp người ta "giới thiệu" những trai gái có thể tiếp nối kết duyên, vì vậy cũng thường có các cuộc hôn phối tiếp sau đó của những trai gái này. (Theo Tapchilamdep)Tập Tục Cưới hỏi* Nam nữ thọ thọ bất tương thân là gì? Ðây là câu nói cửa miệng, quen dùng trong nhân gian ta, chỉ mối quan hệ giữa nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay nhận , sợ tư tình, ra hiệu gì với nhau chăng? Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến của ta thời bấy giờ thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau! Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.* Bà Mai (mối lái) là gì?: Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thọ thọ bất thân" nên hôn nhân cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách. Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì trở thành ân nhân suốt đời. ở xã hội mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối, bà mai, các bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ người độc thân, các công ty dịch vụ....* Lễ Ngõ (vấn danh) có ý nghĩa gì ?:Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm". Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "Công, dung, ngôn, hạnh". Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ, mà cả những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu.* Sự tích tơ hồng : Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích, Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng dây đỏ. Ông lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày có dính trang điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn bé, bà vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.* Tục Lệ thách cưới : Thách cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên thân phận hẩm hiu. Ðáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là quần áo, nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới...nên nhà trai phải bỏ cuộc hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ, song ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau. Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ làng, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu rằng con gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không. Hay các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được "võng anh đi trước, võng nàng theo sau".* Tiền "Cheo" Tiền "Cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nhưng có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Ðầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng. Ðể đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần dần có nhiều người lời dụng vòi tiền, sách nhiễu, trở thành lệ tục xấu, triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám cưới được công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Ðã hơn nửa thế ký, lệ làng này đã bị bãi bỏ rồi.* Trước khi cô dâu về nhà chồng cần những thủ tục gì? Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà. Lễ xong, hai người đi mời chào thân nhân, khách khứa, trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô. Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại (sống) có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn. Thời xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỷ niệm.* Ý nghĩa của lễ xin dâu và thủ tục Lễ này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một bình rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi bất trắc nên mới định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái, nên uỷ thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiềm trạm". Trong trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau: Khi đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp lại thứ tự đi trước đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một người đội lễ (mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.* Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà? Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay. Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu: Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. hững tập tục cưới của Việt Nam Ngày nay, việc cưới và được tổ chức theo hình thức mới, ít coi trọng tục lệ cũ, nhưng những truyền thống đằng sau các bước và nghi thức chính chưa phải đã mất hết. Tuy nhiên, các đám cưới truyền thống xưa cũng khác nhau tùy theo vùng và dân tộc.Ngày nay, khi những người dân thành thị ở Việt Nam làm đám cưới, cả cô dâu và chú rể đều mặc quần áo cưới theo kiểu phương Tây, thay cho những bộ đồ cưới cổ truyền. Nhưng, ngay cả khi họ vẫn mặc bộ đồ cưới cổ truyền thì những bộ đồ cưới này không chỉ là màu trắng như vẫn dùng từ thế hệ này qua thế hệ khác, mà cả những bộ đồ mới nguyên màu hồng và màu đỏ.Ngày xưa, cha mẹ thường lựa chọn nàng dâu cho con trai mình. Ở vùng cao, nam nữ thanh niên được tự do tìm hiểu, cha mẹ chỉ tham gia khi con cái đã có sự lựa chọn. Đôi khi, trong những gia đình là bạn thân của nhau thì cha mẹ sắp xếp chuyện cưới xin, sắp đặt tương lai cho con cái. Thời Pháp thuộc, việc lựa chọn vị hôn phu theo kiểu Tây phương bắt đầu có ảnh hưởng đến truyền thống hôn nhân của Việt Nam - tương tự như truyền thống của các dân tộc châu Á khác. Mặc dù, nam nữ thanh niên ngày nay có thể tự do hơn trong việc lựa chọn người bạn đời, nhưng sự đồng ý của cha mẹ, đặc biệt trong các gia đình lớn, vẫn là cần thiết.Trong các dân tộc ít người, việc lựa chọn người bạn đời thường được dành cho từng cá nhân. Ở Tây Nguyên, nam nữ thanh niên có thể hẹn hò, gặp gỡ nhau trong rừng, ở nhà hoặc trong các lễ hội. Một số cha mẹ còn dựng các lều nhỏ cho con gái mình làm nơi hò hẹn. Cô gái sẽ mời người yêu của mình về ở với cô trong lều năm đêm. Nếu chàng trai không đồng ý lấy cô thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu. Nếu đôi trai gái đồng ý kết hôn, họ sẽ thưa chuyện với cha mẹ. Qua các ông mối, các thiếu nữ Gia Lai và Ê Đê thường ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, tức là họ chấp nhận lời hứa hôn và hôn lễ sẽ được cử hành sau đó. Đám cưới Nam BộĐối với người Mông, khi đôi trai gái đồng ý cưới nhau, chàng trai sẽ báo trước cho người yêu biết ngày và nơi mà cô sẽ bị "bắt". Theo tục lệ “bắt vợ” này, người con gái sẽ được đưa về nhà người yêu như một "tù nhân". Sau 3 ngày bị "bắt", nếu cô gái không trốn khỏi nhà có nghĩa là cô gái đã đồng ý cưới chàng trai. Sau đó, cha mẹ chàng trai nhờ ông mối chọn ngày lành tháng tốt cho lễ cưới. Cô gái được trở về nhà để chuẩn bị tư trang và váy áo cho đám cưới. Đôi khi, thêm một lần thử thách người yêu, cô gái Mông lại yêu cầu người yêu "bắt" cô ngay tại nhà vào giữa đêm - việc này không phải là dễ vì lúc này trong nhà thường có đầy đủ mọi người. Để giúp người yêu, cô gái thường để ngỏ cửa sau. Khi bị "bắt", cô gái có thể sẽ hoảng sợ, kêu thật to, đánh thức cả nhà. Nếu chàng trai kéo được cô thật nhanh ra khỏi nhà thì càng chứng tỏ chàng trai của cô là người dũng cảm và mạnh mẽ. Nhiều chàng trai Mông muốn mang hạnh phúc bất ngờ cho người yêu. Họ đến "bắt" mà không báo trước, lại còn giả làm người lạ để cô gái không nhận ra ngay từ đầu. Nhưng sau đó, cô gái sẽ vô cùng hạnh phúc khi nhận ra người yêu. Một số cô gái đã biết trước thường tách ra khỏi bạn bè, ở nơi vắng vẻ để bị "bắt" được thuận tiện. Từ bao đời nay, tục lệ "bắt vợ" này vẫn còn tồn tại. Ở vùng Tây Bắc, khi chàng trai muốn cưới cô gái, anh ta thường rủ bạn bè, mang những chiếc khèn bè, đến diễn tấu dưới cửa sổ nhà sàn các cô gái. Qua thời gian tìm hiểu, chàng trai nào chọn được người yêu rồi sẽ nói với cha mẹ để lo chuyện hôn nhân. Theo tục lệ cũ, người con trai phải đến ở nhà người con gái trong 3 tháng trước khi làm lễ cưới chính thức. Anh ta chỉ được phép ở gian đầu nhà sàn dành cho khách nam giới. Anh ta cũng chỉ được phép mang theo một con dao để làm việc. Sau thời gian “thử thách” 3 tháng, nếu được bố mẹ vợ tương lai ưng ý, chàng trai sẽ trở về nhà để báo cho bố mẹ mình biết. Lần này, anh ta mới được mang tư trang của mình đến và ở đó suốt 3 năm. Lễ thành hôn chính thức chỉ được tiến hành sau 3 năm! Sau 3 năm, nếu đồng ý lấy chàng trai, cô gái sẽ búi tóc bằng trâm cài đầu và cái độn tóc giả do gia đình nhà trai mang đến. Cô gái nào không muốn cưới chàng trai sau 3 năm đó sẽ phản kháng bằng cách cắt trụi tóc mình. Sau lễ cưới, chú rể sẽ tiếp tục ở nhà gái từ một đến mười năm và chỉ được phép đưa vợ về nhà mình sau một nghi lễ đưa dâu long trọng. Lần này, nàng dâu phải chuẩn bị nhiều quà biếu gia đình bên chồng như tấm áo khoác thật đẹp cho mẹ chồng, một bộ quần áo thật đẹp biếu bố chồng và những tấm khăn piêu biếu cô bác bên chồng. Ảnh cưới thế kỷ 19Trong một số trường hợp khi đám cưới do bố mẹ sắp xếp, lễ nạp thái đánh dấu lần đầu tiên hai gia đình gặp nhau. Ở giai đoạn này, chàng trai và cô gái đã được "lựa chọn". Sau đó, gia đình chú rể sẽ hỏi họ tên, ngày sinh tháng đẻ cô dâu tương lai. Song, họ thường nhờ thầy số bấm tuổi từng người, so đôi tuổi xem đôi trai gái có thể sống hòa hợp nhau và bền lâu hay không.Khi mọi thứ suôn sẻ, gia đình chú rể sẽ thông báo cho gia đình cô dâu biết và trước lễ ăn hỏi, gia đình nhà gái sẽ thách cưới. Lễ vật gồm gạo nếp, gà, thịt heo, trà, trầu cau cho lễ cưới, một số nữ trang và vải vóc cho con gái. Việc đem những lễ vật này đánh dấu bước ăn hỏi giữa hai gia đình.Trầu cau mang điển tích nhắc nhở lòng thủy chung của đôi trai gái. Gia đình cô dâu sẽ biếu lại nhà trai một phần lễ vật, số còn lại đem chia thành gói nhỏ, biếu họ hàng, bạn hữu để báo tin con mình đã đính hôn.Từ ngày ăn hỏi đến ngày cưới, có tục sêu Tết. Chàng rể chưa cưới biếu nhà vợ mùa nào thức nấy những thứ đầu mùa như chim ngói, ngỗng, dưa hấu... Thời gian này, nhà gái thường phải tỏ ra không vội vã trong khi chú rể biết rằng anh ta phải cưới vợ càng nhanh càng tốt. Trong dân gian có câu rằng: “Cưới vợ thì cưới liền tay” bởi vì cô gái có thể bỏ đi với người khác nếu phải chờ đợi quá lâu. Đám cưới thời chiếnLễ cưới được tổ chức khác nhau tùy theo từng vùng. Ở vùng nông thôn miền bắc có tục chăng dây tơ hồng đám cưới. Một số thanh niên bên nhà gái chăng một sợi chỉ đỏ ngang đường mà cắt đi là điều tối kỵ. Nếu sợi tơ hồng bị đứt, cặp vợ chồng không thể ăn đời ở kiếp với nhau lâu được. Dưới sợi tơ hồng đó đặt một chiếc bàn, có sẵn bút, mực và giấy, trên giấy đã ghi sẵn một vế đối mà chú rể phải viết nốt vế đối còn lại. Thí dụ: nếu một vế của câu đối là: "Đông sàng tự Cổ, Đô Tây tịch." (Cái giường phía Đông từ xưa vẫn trải chiếu phía Tây) thì chú rể đối lại như sau: "Nam nhạn quy Trình, Xá Bắc chân." (Con chim nhạn ở phương Nam bay về - đỗ ở bãi phía Bắc). Một khi chú rể hoặc một người trong họ nhà trai hoàn thành vế câu đối, chú rể coi như đã “đậu”. Nhà gái cuốn sợi dây tơ hồng lại, nổ pháo tưng bừng, đón mừng chú rể. Gia đình chú rể được mời ăn trầu, uống rượu và ăn cơm chiều. Sau bữa ăn, đại diện nhà gái mặc quần áo đẹp, cùng cô dâu, chú rể trở về nhà chú rể. Về đến nhà chú rể, cô dâu phải bước qua một lò nhỏ than hồng, tục rằng để đốt vía, tránh dư luận gièm pha. Hai người làm lễ tế tơ hồng, khấn Ông Tơ Bà Nguyệt, rồi cùng uống chung chén rượu, cùng ăn chung khẩu trầu. Đến lễ gia tiên, hai người lạy ông bà, cha mẹ. Nghi lễ cuối cùng chấm dứt khi cô dâu chú rể vào phòng. Một bà cao tuổi, vợ chồng song toàn, con cái đông đủ được mới sắp giường, giải chiếu cho đôi vợ chồng mới. Xong, mọi người rút lui. Ngày hôm sau hoặc sau 4 ngày, đôi vợ chồng mới về thăm gia đình nhà vợ, thường mang theo mâm lễ, có cả con lợn quay. Nghi lễ này gọi là Lễ nhị hỷ hoặc Lễ tứ hỷ. Nếu rủi thấy tai con lợn đem sang bị xẻo, đó là báo hiệu có chuyện “trục trặc”. Ở, vùng nông thôn, đôi vợ chồng mới cưới thường phải nộp cheo bằng một số vật liệu như gạch, ngói để tu bổ hoặc xây mới các công trình công cộng của làng xóm bên gái như đình, điếm, đường làng, cổng làng... Việc này chứng tỏ đôi vợ chồng mới là thành viên của làng, của xóm. Lễ ăn hỏi tại Hà Nội ngày nayTrong các đám cưới ở thành phố hiện nay, các phu cưới được thay bằng các xe xích lô lọng vàng hoặc ô-tô chở lễ vật từ nhà trai sang nhà gái. Đám cưới giảm hầu hết các nghi lễ cổ kính mà thay bằng tiệc tùng náo nhiệt, có ca hát, có nhạc mới, một số nơi có cả khiêu vũ, chụp ảnh, quay phim. Cô dâu, chú rể lên xe hoa về nhà. Đám cưới tập thể tại Festival hoa Đà LạtNgày nay, đám cưới đã có những thay đổi lớn, theo thời gian và thời thế. Người phụ nữ không còn quanh quẩn trong nhà nữa, đã ra ngoài xã hội, làm mọi công việc bình đẳng với nam giới, tự quyết định lấy cuộc đời của mình. Tuy nhiên, những nghi lễ cần thiết như cưới, hỏi vẫn phải có vì thanh niên ngày nay vẫn phải xin phép cha mẹ khi cưới xin.Trình tự tổ chức đám cưới ________________________________________Trình tự tổ chức đám cưới của bạnChuẩn bị đám cưới, bạn phải làm những gì? Việc nào trước, việc nào sau? Hãy đưa ra một lịch trình cụ thể và nhờ sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm nếu không muốn mọi thứ rối tung lênƯớc định khoảng thời gian sẽ tổ chức lễ cưới. Ghi chú: cần ước định trước khoảng 6 tháng. Đi xem bói: chọn ngày lành tháng tốt có trong tháng đó. Kết hợp xem thiên văn: nên chọn nhằm vào ngày nghỉ (T7, CN) hoặc ngày lễ (để khách có thời gian đi dự). Chọn giờ tổ chức lễ: để khách đến dự thuận lợi đi về (đặc biệt với khách ở quê, không nên chọn tổ chức buổi tối ; và/hoặc nhà hàng bạn chọn thuê đưa giá phải chăng; và/hoặc tránh nóng / mưa; …Xác định quy mô lễ cưới. Lên danh sách thực khách. Ghi chú: cần ước định trước khoảng 4 tháng. Gồm có: Khách chung của hai vợ chồng. Khách riêng của chồng: bạn thiếu thời, bạn trung học, bạn đại học, bạn cao học và sau cao học (nếu có), bạn quốc tế (nếu có), đồng nghiệp trong công ty, phòng ban, các sếp, đối tác giao dịch,.. Khách riêng của vợ: cơ cấu tương tự. Khách chung của gia đình chồng: bà con bên nội, bà con bên ngoại. Khách chung của gia đình vợ: cơ cấu tương tự. Khách chung của cha mẹ (hai bên), khách riêng của cha (hai bên), khách riêng của mẹ (hai bên). Khách riêng của các anh chị em chồng, Khách riêng của các anh chị em vợ. Trời, còn để sót ai nữa nhỉ? Việc này phải chia ra các đầu mối có liên quan, thương lượng để phân bổ quota hợp lý. Tổng kết đầu khách. Xác định tình trạng hôn nhân (để viết thiệp mời cho thích hợp). Xác định tình trạng hạnh phúc (và/hoặc kinh tế) của mỗi khách (để dự kiến xem họ có đi dự không, nếu dự thì đi single hay double, hay all family (many kids). Từ đó qui ra số bàn cần đặt trước, và tỷ lệ bàn dự phòng. Các bạn nào có kinh nghiệm về việc này (dự kiến số lượng khách và đặt bàn) xin cho ý kiến.Khảo sát chọn nhà hàng – thực đơn. Ghi chú: cần ước định trước khoảng 3 tháng. Nhà hàng: lên danh sách những nhà hàng nên chọn và không nên chọn dựa trên dư luận báo chí, thân nhân và kinh nghiệm bản thân. Xin các bạn ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, TpHCM, Cần Thơ,… cho ý kiến. Đi khảo sát giá và thực đơn. Ký hợp đồng. Xin các bạn có kinh nghiệm cho ý kiến về khoản này: những gì cần lưu ý, cần giao ước rõ, cần cảnh giác tránh bị lừa,..Quay phim chụp ảnh. Ghi chú: cần ước định trước khoảng 2 tháng. Cho riêng đôi uyên ương. Cho lễ cưới. Xin các bạn có kinh nghiệm cho ý kiến về khoản này: những gì cần lưu ý, cần giao ước rõ, cần cảnh giác tránh bị lừa,..Các dịch vụ cưới. Ghi chú: cần ước định trước khoảng 1 tháng. Xin các bạn có kinh nghiệm cho ý kiến về khoản này. Đặt xe hoa. Thuê áo cưới. Trang điểm. In thiệp cưới Và gì nữa nhỉ?Các bước chuẩn bị cuối cùng : Phát thiệp mời (trước 2 tuần). Tái xác nhận hợp đồng nhà hàng, xe, áo, trang điểm. Chuẩn bị các phương án dự phòng. Xin các bạn có kinh nghiệm cho ý kiến về khoản này. Mời người nhà và bạn thân tham gia các công việc trong ngày cưới. Việc gì nhỉ? Rể phụ, dâu phụ, trực bàn ..thu tiền, đón tiếp khách, dẫn đường cho khách vào đúng bàn, theo dõi nhắc nhở người phục vụ trong suốt đám cưới, thực hiện kiểm kê thanh toán sau tiệc cưới…Còn 1 tuần: nghỉ ngơi, chuẩn bị ..chiến !7 bước chuẩn bị trước khi cưới : Để trở thành cô dâu và chú rể hoàn hảo, “người trong cuộc” đều cần những bước chuẩn bị cụ thể. Thường thì người ta nêu vấn đề và quan tâm tới cô dâu nhiều hơn, nhưng trong bài này chúng tôi xin nêu 7 bước đối với cả cô dâu và chú rể - 2 nhân vật chính của hội hôn.Đối với cô dâu tương lai1.Chọn nhà hàng ít nhất từ 6 tháng tới 9 tháng trước hôn lễ: Bạn đừng cho đây là sự lo xa, vì sự lo xa này hoàn hoàn không thừa. Các nhà tư vấn cưới hỏi cho rằng để không phải gặp sự cố “vắt chân lên cổ mà chạy” vì tới nhà hàng, khách sạn nào cũng bị từ chối vì đã hết chỗ, đôi tân hôn cần liên hệ với nhiều nhà hàng, xem xét thực đơn để chọn cho mình một nơi đặt tiệc hợp lý nhất, phù hợp với điều kiện mọi mặt của mình nhất.2. Chọn mẫu và in thiệp cưới đầy đủ: Nhiều đôi tân hôn đã sai lầm khi xem nhẹ vịêc này. Vấn đề ở chỗ là cần lập danh sách khách mời thật kỹ để tránh trường hợp sát ngày cưới mới “vắt chân lên cổ” chạy đôn chạy đáo để in thêm thiếp mời.3. Không nên may trang phục cưới quá sớm: Thực tế cho thấy số đo của cô dâu tương lai có thể thay đổi trong những tháng sát hôn lễ. Vì vậy nếu cô dâu may trang phục cưới quá sớm rất dễ vừa mất công sửa chữa và áo sẽ mất đẹp. Các nhà tư vấn khuyên rằng: tốt nhất cô dâu nên chọn kiểu dáng trước cùng với việc chuẩn bị sẵn sàng chất liệu vải. Và chỉ nên may trang phục cưới trước khi lên xe hoa khoảng 1 tháng.4. Chọn cách trang điểm phù hợp nhất: Các cô dâu không nên chủ quan khi quá trông cậy vào chuyên viên trang điểm. Các chuyên gia tư vấn khuyên rằng khi có thời gian rảnh rỗi, cô dâu tương lai nên tự trang điểm một vài kiểu, từ đó chọn ra cách trang điểm phù hợp nhất với mình dành cho ngày trọng đại của mình.5. Cần lập một quỹ riêng để phòng bội chi: Giống như làm nhà, tổ chức cưới thường bao giờ cũng có những khoản phát sinh. Vì vậy, đôi tân hôn phải chuẩn bị để luôn chắc chắn rằng mình có gần gấp đôi số tiền định chi trong ngày cưới. Và đôi tân hôn cần bỏ số tiền dư ấy vào một quỹ riêng để dự phòng.6. ăn ngủ điều độ để giữ sức khoẻ: Nếu cô dâu không muốn thường xuyên mệt mỏi, da khô, lên cơn đau dạ dày bất chợt hoặc nổi mụn đúng vào ngày cưới…thì nhất thiết cần tập một môn thể dục và ăn ngủ điều độ để đảm bảo sức khoẻ.7. Cần học thuộc quy trình và các bước của hôn lễ: Các nhà tư vấn khuyên cô dâu phải hỏi rõ ý bố mẹ đôi bên về quy trình làm lễ cưới. Đôi tân hôn cũng cần học thuộc điều đó để tránh bỡ ngỡ, vấp váp và lúng túng vào những thời điểm quan trọng nhất.Đối với chàng rể tương lai.1.Chuẩn bị để có một sức khoẻ mỹ mãn: Không phải ngẫu nhiên các nhà tư vấn đưa yêu cầu này lên đầu tiên. Hãy tưởng tượng cô dâu sẽ thất vọng thế nào nếu chú rể bị mất đi “đàn ông tính”. Không chỉ là sự chuẩn bị cho đêm tân hôn mà đôi khi trong những công việc có tính thủ tục nhất như dìu cô dâu đi chúc tụng hai họ, chụp ảnh, cảm ơn mọi người… nếu như không có sức khỏe chú rể chắc cũng…chịu. Các nhà tư vấn khuyên cả cô dâu chú rể cùng tập thể dục để giữ sức khoẻ cho “hai đứa mình”. Tuy nhiên, việc tập của chú rể là gần như bắt buộc.2. Không tập uống rượu bằng mọi giá: Nếu tửu lượng khá chú rể có thể yên tâm một phần trong ngày vui. Còn tửu lượng kém thì cũng đừng nghe các “quân sư quạt mo” tư vấn không đúng, nếu họ khuyên chú rể phải tập uống rượu bằng mọi giá. Bởi vì tửu lượng phụ thuộc nhiều vào sức khỏe và tạng người cũng như khả năng tiếp nhận của mỗi người. Đừng cố tập uống rượu nếu không lợi bất cập hại.3. Đừng quá coi nhẹ trang phục cho mình: Nhiều chú rể đã tỏ ra không mấy quan tâm tới chuyện trang phục. Có chú rể tương lai còn bàng quan: “ Quan trọng là trang phục cô dâu chứ chú rể mặc thế nào mà chẳng được”. Hậu quả là cô dâu “mặt dài như cái bơm” vì thấy trang phục chú rể không tương xứng với mình và các tấm ảnh cưới vì thế cũng xấu đi, vì “ông chẳng bà chuộc”. Tốt nhất là chú rể nên bàn bạc với cô dâu để chuẩn bị đầy đủ trang phục cưới hài lòng nhất cho cả hai người.4. Nên sử dụng một số loại thuốc bổ hợp lý: Có nhiều lọai thuốc bổ dành cho chú rể. Nên dùng các loại thuốc hoạt hoá hệ nội tiết và tăng hoạt động các cấu trúc thần kinh, tăng phản xạ, tăng cường các hoạt động sinh lý; hỗ trợ chức năng gan, phòng ngừa bệnh tim mạch, duy trì trạng thái hoạt động cao và chống mệt mỏi cơ bắp…Các loại rượu thuốc có ngâm cá ngựa, tằm đực, long nhãn, bìm bịp…cũng nên được chú rể sử dụng hợp lý.5. Quan tâm tới hội hôn và MC (người dẫn chương trình): Cũng như cô dâu, chú rể không những không thể không học thuộc quy trình hôn lễ mà còn cần biết lường trước những phát sinh. Chẳng hạn phải biết MC là người như thế nào, có kinh nghiệm và có chuyên nghiệp không. Nếu không quan tâm tới điều này, chú rể sẽ là người phải “chữa cháy” trong nhiều trường hợp khó xử.6. Cần luôn là người chủ động: Giống như vai trò trụ cột trong gia đình tương lai, trong ngày vui của mình chú rể cũng cần tập cho mình vai trò quyết định và xử lý những vấn đề quan trọng. Cần tự mình chuẩn bị đầy đủ để vừa thực hiện tốt vai trò của mình, vừa tránh những câu hỏi dành …cho vợ, kiểu như: “Em ơi, cái này làm thế nào?” hoặc “Em ơi, theo em thì nên thế nào?”…7. Tăng cường khả năng bao quát công việc: Yêu cầu này đối với chú rể tương lai được các nhà tư vấn gọi là “khả năng bao sân”. Đây là đòi hỏi về sự chủ động, quyết đoán, năng động, nhanh nhậy và sự thông minh khi đưa ra các quyết định trong từng thời điểm cụ thể. Người ta không hy vọng những điều trên ở cô dâu mà chỉ có thể hy vọng ở chú rể vì “trời sinh ra đã như thế”. Để hoàn thành vai trò thiên định này, chú rể có thể tham khảo ý kiến của gia đình đôi bên, bạn bè thân thiết hoặc đặc biệt là ở các nhà tư vấn, tâm lý gia đình…Không thể khoanh tay ngồi chờĐể trở thành cô dâu cũng như chú rể hoàn hảo, hoàn toàn không đơn giản. Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể làm được. Có rất nhiều sự cố, rất nhiều vấn đề phát sinh đang chực chờ đôi tân hôn trong ngày cưới. Chuẩn bị cho nó mọi mặt một cách tốt nhất, đặc biệt là về các trạng thái tâm lý và sức khoẻ, chắc chắn cô dâu chú rể sẽ có được ngày vui trọn vẹn.Vấn đề là ở chỗ “muốn có gì phải có gì”. Các đôi tân hôn sẽ không thể có mọi thứ như ý nếu cứ chỉ khoanh tay ngồi chờ…Lập kế hoạch 12 tháng trước ngày cưới : Lập kế hoạch cho đám cưới đòi hỏi phải có tổ chức và lưu ý từng chi tiết, và đôi khi rất khó có thể nhớ mọi thứ bạn cần phải làm. Sau đây là bản liệt kê những mục cần kiểm tra bạn có thê tham khảo để giúp bạn tổ chức tốt. In ra và giữ bên bạn để kiểm tra tiến trình bạn thực hiên những việc chuẩn bị cho ngày cưới của bạn được hoàn hảo. 12 tháng hoặc hơn trước ngày cưới của bạnThông báo dự định đám cưới cho cả hai gia đình. Sắp xếp để hai bên gặp mặt bàn bạc về chuyện cưới.Xác định kiểu đám cưới cho bạn (lịch sự, thông thường, đơn giản)Liệt kê những gì quan trọng cần làm cho đám cưới của bạn, nó sẽ giúp bạn xác định được ngân sách cần chi phí.Ngồi lại với vợ (chồng) tương lai của bạn và thảo luận về ngân sách cho đám cưới, và ai là người trả cho cái gì.Làm lên quyển sổ kế hoạch đám cưới ( 3 tập quyển sổ lớn). Dùng chúng để lưu trữ những thông tin, hợp đồng, ý tưởng, hình chụp,...Nói chuyện với những người ở giáo đường về những yêu cầu của bạn (nếu bạn là người thiên chúa giáo)Chọn ra 2 hoặc 3 ngày cưới đẹp và tìm kiếm nơi đãi tiệc. Nếu những nơi đãi tịêc bạn thích còn chỗ cho một trong những ngày đẹp bạn đã chọn, bạn nên đặt chỗ ngay; nhiều chỗ đãi tiệc thường bị book trước cả 1 hoặc 2 năm về trước.9 tới 11 tháng trước khi cướiBắt đầu tìm kiếm và nói chuyện với những chuyên gia về:Chụp hìnhQuay phimQuản lý khách sạnTư vấn (nếu cần)Hoa cướiNếu bất kỳ người làm dịch vụ phục vụ đám cưới sẵn sàng cho ngày cưới bạn đã chọn và phù hợp với túi tiền của bạn, hãy book ngay dịch vụ đó! Giống như nhà hàng, những dịch vụ này cũng đã được book cả năm về trước. Cùng với Ba Má hai bạn, bắt đầu liệt kê danh sách khách mời. Bạn có thể thu hẹp lại số lượng khách mời sao cho phù hợp với khả năng tài chính của bạn. Bắt đầu tìm kiếm thông tin trên tạp chí cưới hỏi, hội chợ triển lãm cưới và tìm kiếm trên internet.Quyết định chọn màu sắc cho đám cưới của bạn, nhạc và kiểu đám cưới. Chọn những người giúp bạn trong ngày cưới (phù dâu, phù rể, người hướng dẫn chỗ ngồi, bé gái theo sau,...) Chọn và mua nhẫn cưới.Bắt đầu tìm kiếm và lựa chọn nơi đi tuần trăng mật. Thảo luận nơi nào cả hai bạn cùng muốn đi, nếu cần ghé và hỏi thăm thông tin ở những điểm đại lý du lịch.Bắt đầu tìm kiếm áo cưới, khăn che mặt, phụ trang và trang phục cưới.6 tới 8 tháng trước khi cướiBắt đầu lập kế hoạch chọn nhạc cho buổi lễ và tiệc cưới.Bạn nên hoàn thành quyết định và mua áo cưới, khăn che mặt, và phụ trang.Nếu bạn đã có sự đồng ý cho việc lựa chọn cái gì thì hãy quan tâm tới chúng.Hoàn tất trang phục cho những người giúp bạn trong ngày cưới (như phù dâu, phù rể,...)Bắt đầu tìm kiếm mẫu thiệp cưới.4 tới 5 tháng trước khi cướiLàm việc với người làm hoa và hoàn tất những yêu cầu bạn cần với họ.Đặt làm thiệp cưới, phong bì ngoài và trong của thiệp cưới.Bắt đầu tìm kiếm kiểu trang phục chú rể phù hợpĐặt chỗ cho phương tiện đi lại trong ngày cưới.Lập kế hoạch trang trí tiệc cướiSắp xếp chỗ ở cho những người khách ở xa (như đặt chỗ khách sạn).Chọn kiểu bánh cướiLập kế hoạch tập dượt cho tiệc cưới.Liên hệ với người viết tên khách mời vô thiệp cưới (nếu cần)Quyết định các món ăn và những thứ ưa thích trong tiệc cưới.3 tháng trước khi cướiĐặt bánh cướiGặp mặt người giáo mục để thảo luận chi tiết về lễ cưới (nếu cần).Hoàn tất danh sách khách mờiXác định lại kế hoạch tập dượt cho tiệc cướiMua dao cắt bánh, sổ ký tên cho khách mờiMua quà cho những người giúp đỡ bạn trong ngày cưới.Thử trang phục cưới.Xác thực và sắp xếp cho ngày đi hưởng tuần trăng mật.Ghi tên khách mời vô thiệp cưới hoặc thuê người viết.2 tháng trước khi cướiLập kế hoạch gặp mặt những người tư vấn làm tóc và trang điểm để thử trước.Làm thủ tục đăng ký kết hônHẹn thử áo cưới lần đầu tiênGặp mặt những nơi làm dịch vụ cưới cho bạn để hoàn tất mọi yêu cầu.Hoàn tất việc chọn nhạc cho đám cưới.Chụp hình chân dung cướiGặp mặt người giáo mục để hoàn tất những chi tiết cho buổi làm lễ cưới tại nhà thờ (nếu cần)Đặt phòng cho đên tân hôn (nếu cần)1 tháng trước khi cướiGửi thiệp mời.Xác thực đặt chỗ cho tuần trăng mậtGặp mặt người chụp hình và quay phim để thảo luận chi tiết.Bắt đầu sắp xếp sơ đồ chỗ ngồi cho khách mời.Thử lại lần cuối áo cướiSắp xếp ghế ngồi cho em bé (nếu cần)Hoàn thành và in ra chương trình của đám cướiXác thực những khoản tiền cần chi trả cho những dịch vụ với thời gian và địa điểm giao đồ.Lấy giấy Đăng ký kết hôn2 tuần trước khi cướiHoàn tất sơ đồ chỗ ngồi của khách mời.Xác thực thời gian giao đồ và địa điểm với người làm hoa, bánh cưới.Lấy trang phục cưới, trang phục cho những người giúp bạn trong ngày cưới, và lấy cả những phụ trang về.Đưa chính xác số lượng khách cho người quản lý tiệc cưới ở khách sạn.Xác thực mọi thứ với những nơi làm dịch vụ cưới cho bạn Chắc chắn rằng tất cả những người giúp bạn trong ngày cưới thử đồ vừa vặn lần cuối.10 ngày trước khi cướiTập dượt lễ trướcThử đồ ăn trong menu tiệc cưới.Cắt sửa móng tay và móng chânNhắc lại ngày cưới với những người cho thuê phương tiện trong ngày cướiKiểm tra lại ngày với người làm tóc và trang điểmNếu bạn được phép vào nơi làm lễ và nơi đãi tiệc, hãy mang tất cả những thứ cần thiết tới đó trước (như đồ trang trí, sổ ký tên khách mời,...)Cất cẩn thận vô nơi an toàn những thứ bạn cần cho ngày cưới (như giấy kết hôn, áo cưới, giày,..)Nói chuyện với tất cả những người giúp đỡ bạn trong tiệc cưới và nói rõ vị trí của họ trong ngày đó.Cố gắng đi ngủ sớm và ngủ ngon.Vào ngày cướiĂn sáng mặc dù bạn cảm thấy không đói bụngChia sẻ cảm nhận riêng tư với người bạn đời của mìnhLàm tóc và trang điểmTặng nhẫn cho người bạn đời của mìnhBắt đầu thay đồ cưới từ hai tiếng trước giờ làm lễ.Hãy dành thời gian ngắm nhìn bạn trước gương trước khi bước ra gặp mặt hai họLễ ăn hỏiCó thể nói rằng, lễ ăn hỏi là sự thông báo chính thức về sự hứa giá thú của hai gia đình, hai họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, thì lễ này bao hàm cả lễ dẫn cưới. (Sự quy giản này phần nào cho chúng ta thấy tính thích nghi của văn hóa cổ truyền trong xã hội đương đại). Chính vì thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cướiMô hình lễ ăn hỏi trong xã hội Việt Nam đương đại như sau:Về thành phần tham dự - Nhà trai : Đại diện gia đình, họ hàng, chú rể, một số nam thanh niên chưa vợ đội mâm quả hay còn gọi là bê tráp, số người bê tráp là số lẻ, 5 hoặc 7 hoặc 9...- Nhà gái : Bố mẹ, ông bà (nếu còn), anh chị em ruột của cô dâu, cô dâu và một số bạn bè thân cận. Ngoài ra còn có một số cô gái chưa chồng có nhiệm vụ đỡ tráp từ các nam thanh niên bên nhà trai, sau đó họ sẽ trao cho nhau các phong bao có tiền lì xì vì để tránh "mất duyên". Ở nông thôn có thể có một số cô dì chú bác của cô dâu...Về lễ vật: 1. 1 buồng cau tươi2. Bánh cốm: 200 chiếc3. Hạt sen: 2 kg4. Chè: 2 kg5. Rượu: 2 chai6. Thuốc lá: 2 tút7. Bánh xu xê (phu thê): 200 hoặc 208. Phong bì tiền : 2 chiếcĐó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất l¬ượng và số lượng thêm thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Tuy nhiên, số lượng nhất thiết phải là 2. Về lễ vật cho lễ này, cần phải tránh xu hướng phục cổ cực đoan (phục hồi tục thách cưới hay thách cưới trá hình) cũng như một cực đoan khác là : nhà trai không có lễ vật dẫn cưới. Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới là : thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là : nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai.Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai : xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự. "Tiền mặt" : Đây là vấn đề đang được tranh cãi nhiều : có ý kiến cho rằng, lễ vật bằng tiền thì quá thô, thậm chí còn có người cho rằng, làm như vật là xúc phạm đến nhà gái,... có người thì lại cho rằng, vấn đề là ở cách đưa tiền : làm thế nào để tiền trở thành một lễ vật chứ không phải là một phương tiện trao đổi, mua bán như chức năng vốn có của nó. Nếu số tiền đó được đổi thành những đồng tiền mới tinh (như tiền mừng tuổi mà ông bà, cha mẹ chúng ta thường làm) và được bao bởi một phong bì đẹp màu đỏ, có in chữ "song hỷ" thì người nhận lễ sẽ không bị mặc cảm là mình đã nhận tiền theo nghĩa đen nữa.Rước lễ vật : Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế (trông đẹp hơn) nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là : ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc. Những lễ vật dẫn cưới theo phong tục cổ truyền đều thể hiện được ý nghĩa trên và ngày nay người Việt Nam vẫn tuân thủ.Trang phục : trang phục cho cô dâu (tốt nhất là một bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này). Nếu kinh tế nhà trai khá giả có thể sắm cho cô dâu tương lai một trong những đồ trang sức sau : xuyến, vòng, hoa tai... Chú rể thì comple, cà vạt.Tiếp khách : Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc. Trách nhiệm của cô dâu : Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ (đối với những nhà không theo đạo Thiên chúa). Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rón nước mời khách.Nhà gái : sau khi nhận lễ rồi đưa lên bàn thờ thắp hương, nhà gái sẽ lấy ra mỗi thứ trong đồ lễ ăn hỏi một ít để "lại quả". Lưu ý là đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.Biếu trầu: Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... ý nghĩa của tục này là sự loan báo : Cô gái đã có nơi có chỗ.Ngày nay, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn không cách xa nhau nhiều về mặt thời gian nên trong khi biếu trầu người ta thường kết hợp với đưa thiếp mời đến dự cưới. Có nhiều người phản đối việc duy trì tục này với lý dó là : những quà biếu này không được sử dụng, gây lãng phí, tốn kém cho nhà trai. Tuy nhiên, tục "biếu trầu" chỉ áp dụng đối với họ hàng hay một số bạn bè thân thiết, nếu không thì việc đưa thiếp mời sẽ không có tính biểu trưng.Phaidep.info [Tong hop] HÀ NỘINghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác có quy định nghiêm ngặt hơn, nhưng trải qua một thời gian nghi thức đó cũng đã thay đổi theo tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, dù có thay đổi gì cũng phải giữ 3 lễ: • Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần thiết, để giữa hai gia đình, " chỗ người lớn " thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như có nơi có chốn, bước đầu để tiến tới chuyện hôn nhân. • Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu được cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su sê", ngày xưa gọi là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là bánh "su sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Thông thường lễ ăn hỏi gồm có 3 lễ: lễ đàng nội, lễ đàng ngoại và lễ tại gia. Lễ tại gia thường được chia ra đưa kèm theo người được mời cưới. • Thời gian sau khi ăn hỏi đến lễ cưới thông thường là dưới 10 ngày. Lễ rước dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ 20 vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Sau khi Hà Nội đô thị hóa, dân cư tập trung chủ yếu ở trung tâm thành phố, là khu vực 36 phố phường thì phong tục cưới xin cũng vì thế thay đổi do tiếp thu trình độ văn hóa phương Tây. Ðám cưới bắt đầu xuất hiện thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn được giữ lại. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù tang (dùng để đựng đồ lễ, dài từ 80cm đến 1m) do hai người khiêng, đựng trầu cau, lợn sơn son (tục này vẫn được giữ trước năm 1945). Sâm banh được mỡ ra báo hiệu một lễ cưới bắt đầu, rượu sâm banh với bánh sâm ba là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới của những người phong lưu. Nhưng dù là người giàu hay nghèo trong đám cưới cũng chỉ dùng tiệc ngọt (không dùng mặn). Trong khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt. Lễ này hiện nay một số đám cưới bỏ qua, từ sau lễ lại mặt bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông gia, vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ). NGUYỄN VINH PHÚC(nhà Hà Nội học) HUẾ Quy trình tổ chức lễ cưới ở Huế cũng có đủ các bước thủ tục như các địa phương khác, từ lễ chạm ngõ, hỏi cưới, đến tân hôn vu quy... Nhìn tổng thể, các đám cưới Huế thường diễn ra tiết kiệm, giản đơn, không phô trương, nhưng ở mỗi phần cụ thể khá cầu kỳ, với quan niệm "trọng lễ nghi khi (khinh) tài vật". • Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc thăm đơn giản. Việc này cũng đôi khi do đôi bạn trẻ thực hiện, nhưng phải là hai nhà có thân tình từ trước. • Ðối với đám hỏi, người Huế chỉ xem là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và tông tộc thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ. Ðám cưới Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, và đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo; không có "lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa. • Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phài nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Còn rượu giao bôi thì theo đúng với lễ giáo phong kiến của Trung Hoa cũ. • Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang nhà trai, với ý nghĩa xem cô con gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật lòng nhà chồng. Buổi gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên vợ hoặc bên chồng. Hiện nay, lễ này đã được nhiều gia đình Huế giảm bớt, bằng cách khi rước dâu, bố cô gái theo về nhà trai bằng một chiếc xe khác xe hoa, và tại tiệc đãi sẽ trao đổi với nhà trai. Ba ngày sau lễ cưới, cô dâu mới được trả lại nhà bố mẹ để thu dọn tư trang về nhà chồng, bắt đầu cuộc sống làm dâu. • Tính cầu kỳ của người Huế tại lễ cưới chủ yếu trong cách hành xử. Không hề có chuyện ầm ĩ ồn ào thái quá trong các lễ và tiệc cưới. Trao đổi ngôn từ giữa hai bên thông gia, giữa bà con thân thuộc đều rất thận trọng. Việc thưa gửi, trình bày của chủ hôn, bố mẹ hai bên đều rất khuôn sáo và không bỏ sót ai. • Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi trọng ở đám cưới Huế. Vị chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Các phù dâu phù rể là người chưa có chồng vợ, tính tình vui vẻ nhanh nhẹn. Một số nhân vật khác cũng được lực chọn tùy phần nghi lễ phù hợp. Ðơn cử trước ngày cưới đôi tân hôn có thể đưa nhau đi may áo cưới (nếu gia đình khá giả), thì ngày giờ đi may phải tốt, chủ tiệm may là người còn cả vợ chồng, nhiều con cái, gia đình hòa thuận. Việc bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa soạn. Lễ vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái, gia đình hòa thuận kiểm tra. Người này cũng sẽ têm trầu cau, bày cặp nến hồng trên bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau khi lễ xong, cặp nến hồng cũng phải được người này thổi tắt. Số người nhà trai đi rước dâu luôn ở số chẵn. Trước khi đi và khi đón dâu về, nhà trai thường cử vài người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã có vợ con ra đứng đón sẵn để "lấy hên" cho đôi tân hôn. Tiến sĩ TÔN THẤT BÌNH NAM BỘHôn lễ chính cử hành tại gia đình. Vì là lễ điều kiện tiên quyết là trang nghiêm, sạch sẽ. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương đăng hoa quả". • Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, truyền thống này nay vẫn giữ, nghe đâu có từ thời Hùng Vương dựng nước. Ðó là nét văn hóa, linh thiêng của dân tộc Việt. Phải có cặp đèn (nến) thật to, trùng với kích thước của đôi chân đèn trên bàn thờ. Ðại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn". Hiểu đó là kiểu "ký tên, đóng dấu" chính thức. • Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất, bắt buộc phải có. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỷ, sợ gió tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dể tắt bất ngờ. Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lửa ở ngay cà những Thế vận hội. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi. nhà văn SƠN NAM Nghi thức HÔN LỄ Ðây là một tài liệu về phong tục rất quý giá của Việt Nam. Khổng Tử đã biên soạn Tứ Thư Ngũ Kinh trong đó có Kinh Lễ được coi trọng nhất, vì nhờ Lễ Nghĩa gia đình, quốc gia mới giữ được giềng mối, có tôi trung, con hiếu, vợ chồng ăn ở đầu râu tóc bạc. ________________________________________ Trong GIA LỄ có HÔN LỄ, tức dựng vợ gả chồng, cưới hỏi, một người trong một đời phải trải qua một lần. Hiện nay ở nước ta, đã có nhiều người không biết cử hành hôn lễ như thế nào? Các bậc trưởng thượng hiện nay, giờ có hôn lễ thì họ cũng giảm rất nhiều, hoặc làm lễ mà không rõ ý nghĩa nghi tiết. Còn có người cử hành hôn lễ cho có lệ. Ðạo Nho đặt ra Hôn Lễ nhằm xây dựng một mỹ tục, một sự ràng buộc linh thiêng của tổ tiên, họ hàng, bạn bè, làng nước chứng kiến, khiến cho có đôi lúc muốn bỏ nhau cũng phải cẩn trọng đắn đo. Không biết thì thôi, đã biết thì phải theo nghi lễ. Thiết tưởng chúng ta nên bảo tồn thuần phong mỹ tục được chừng nào hay chừng đó. Hôn Lễ là quy cách diễn tiến các tiết mục tổ chức cùng nghi thức khấn vái trong việc dựng vợ gả chồng theo truyền thống từ xưa của tổ tiên. Dù ngày nay vấn đề cha mẹ định đoạt chuyện lứa đôi không còn nữa. Trào lưu tiến triển xã hội văn minh tiến bộ. Trai gái tự do quen biết nhau, tìm hiểu nhau thân thiết trước, nhưng khi quyết tâm tính chuyện ăn đời ở kiếp xây dựng mái ấm gia đình thì nhất thiết phải có sự lạc thành hôn lễ, tức là phải có lễ hỏi, lễ cưới, có lễ vật, được đông đủ cha mẹ thân thuộc tham dự chứng tri, đẹp mặt nở mày người sống, có lễ bái gia tiên rạng rỡ vong linh tổ tiên họ tộc, đúng nề nếp lễ giáo gia phong, bảo tồn mỹ tục của xã hội, đất nước, nêu gương tốt cho hậu thế. Ca dao từng nhắn nhủ: Dẩu yêu nhau thắm thiết đậm đà, Nếu chưa hôn lễ, chưa thành vợ chồng. Dù không hẳn là tuyệt đối, có nhiều nhận xét cho rằng những cặp trai gái cùng nhau ăn ở dễ dàng không có qua nghi thức hôn lễ thường dể xảy ra đổ vỡ, tan rã hơn vì không có sự ràng buộc tinh thần của hôn lễ, vì thiếu căn bản vững chắc của lễ giáo, trái với thuần phong mỹ tục của xã hội. ________________________________________TỔ CHỨC HÔN LỄ (Diễn tiến đúng theo nghi thức) ________________________________________A. LỄ VU QUY (Gái Xuất Giá) Tổ chức tại nhà họ gái. 1. Lễ nhập gia: Họ nhà trai đến, báo họ nhà gái biết để xin vào. 2. Lễ trình sính phẩm, lễ vật: Gồm đôi đèn, cặp rượu, trà, mâm trầu cau và các quả bánh, trái cây. 3. Lễ bái gia tiên: Lễ lên đèn, lễ bái Từ Ðường. Người điều hành lễ đứng quay mặt vào bàn thờ, chú rể đứng bên phải và cô dâu đứng bên trái người điều hành lễ. Thân tộc họ đàng gái đứng bên phải cạnh bàn thờ. Thân tộc họ đàng trai đứng bên trái cạnh bàn thờ (nam tả nữ hửu tính từ hướng trong bàn thờ nhìn ra) 4. Lễ khai lộc: (lễ dở mâm trầu), nếu có xem nghi thức cúng vái) 5. Lễ trình sinh nghi: Nữ trang, hoa tai (đôi bông tai, dây chuyền, vòng xuyến) mẹ chồng hay đại diện đeo cho cô dâu, nhẩn (nếu có) trai gái đeo nhẩn cho nhau. Tiền mặt. 6. Lễ yết kiến nhạc phụ mẩu: Rể ra mắt cha mẹ vợ và thân thuộc bên nhà vợ (xem nghi thức diển đạt) Ðược phép gọi cha mẹ nhau. 7. Lễ thân nghinh: (lễ rước dâu) Xin rước dâu và cung thỉnh quý tộc họ nhà gái đưa dâu và mời dự tiệc tại nhà trai. B. LỄ THÀNH HÔN (Lễ cưới tổ chức tại họ nhà trai) 1. Lễ trình sính phẩm lễ vật: Lễ vật của nhà gái dâng cúng thường đôi đèn tống hôn và hai quả bánh. 2. Lễ bái gia tiên: Lễ lên đèn, Lễ bái Từ Ðường. 3. Lễ yết kiến công cô: Lễ ra mắt cha mẹ chồng, dâu bái yết cha mẹ chồng và thân thuộc bên nhà chồng (xem nghi thức dẫn đạt) 4. Lễ phu thê giao bái: Vợ chồng giao bái hiệp cẩn ( xem nghi thức dẫn đạt). 5. Lễ từ quy: Lễ kiếu, Lễ cáo từ, do họ nhà gái trình. 6. Lễ tiễn đưa: Lễ đưa do họ nhà trai trình. NGHI THỨC KHẤN VÁI ________________________________________A. LỄ BÁI GIA TIÊN (Lễ lên đèn, Lễ Từ Ðường) a. Những điều cần lưu ý 1. Khui rượu và rót rượu vào ly trên bàn thờ . 2. Các quả bánh, trái cây được mỡ mâm ra. Có thể một ít bánh trái cây được sắp vào đĩa đặt trên bàn thờ. 3. Mâm trầu cau (nếu có) giữ nguyên để đến lễ dở mâm trầu mới dở ra. 4. Cha mẹ, thân tộc họ hàng nhà trai đứng cạnh bàn thờ phía trái, cha mẹ , thân tộc nhà gái đứng cạnh bàn thờ phía mặt. 5. Mai nhơn hay người điều hành lễ đứng trước bàn thờ, mặt day vào bàn thờ, trai (rể) đứng bên phải người điều hành lễ. Gái (dâu) đứng bên trái. Dâu rể đều quay mặt vào bàn thờ. 6. Ðốt sẵn bốn cây nhang (nếu có nhang đại càng quý) cháy sẵn để trên bàn thờ khi tới khấn cúng nhang. Người điều hành lễ sẽ lấy cầm vái. 7. Ðốt đôi đèn chậm rãi cẩn thận tim đèm cháy thật tốt và hai ngọn cháy bằng nhau, nếu cây nào cháy còn yếu, nghiêng tim xuống cho ngọn lửa cháy đều. Bình tĩnh đợi khi cháy đều mới bắt đầu. 8. Cầm đôi đèn nhớ nhìn hàm rồng và mỏ của phượng phải giao nhau. Tức là cây rồng ở tay phải và cây đèn phượng ở tay trái. b. Nghi thức khấn vái Người điều hành lễ cầm đôi đèn bằng hai tay vòng cung ngang tầm mắt, hình rồng và hình phụng ngay trước mắt mình. Người điều hành lễ quay mặt ra ngoài (hai tay vẫn vòng cung cầm đèn) để khấn vái cáo tri trời đất và vái lớn rõ ràng như sau: (khấn phải thuộc lòng)1. Lễ cáo trời đất:• Từng nghe rằng đạo vợ chồng có thiên chức là trưởng dưỡng và sinh hóa đế gây mối cho ÐẠO TRỜI ÐẤT và là giềng mối chính của ÐẠO CON NGƯỜI.• Chí thành long trọng khấn cao cùng HOÀNG THIÊN HẬU THỔ linh ứng chứng giám lễ Vu Quy (Thành Hôn).• Người điều hành lễ dứt lời, quay lưng xoay mặt vào bàn thờ. Tay mặt đưa cây đèn rồng cho rể đang đứng ở tay mặt (cầm hai tay). Tay trái đưa cây đèn phượng cho cô dâu đang đứng ở tay trái (cầm vòng). Trao đèn xong, người điều hành lễ bước tới lấy bốn cây nhang (đã đốt sẵn ở bàn thờ) và vòng cung tay cầm nhang ngang tầm mắt để khấn vái tiếp. 2. Lễ bái gia tiên (phần 1) • Hôm nay ngày, tháng, năm (âm lịch) trân trọng Thiết Trần sính phẩm lễ vật cống hiến cùng thành kính dâng lên: Hoàng Thiên Hậu Thổ Chí Linh, Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tôn, Chư vị Tổ Tiên Phụ mẫu. • Từ ngàn xưa trời đất phối hợp có âm có dương, con người sánh đôi bởi vợ chồng, cho nên có âm dương có vợ chồng. Dẫu thiên địa cũng vòng phu thê. • Hôn nhân là mối đầu của muôn sự sinh hóa nên được coi là nguồn gốc chính xây dựng gia đình, và gia đình luôn là nền tảng vững bền của xã hội, sức mạnh tiềm ẩn của quốc gia, rất hệ trọng và mật thiết cho sự phát triển giống dòng cũng như duy trì quy luật sinh tồn truyền thống của nhân loại. • Ðạo vợ chồng là đạo cả tâm can, là nguồn gốc chính nhân luân đạo giới. • Tình yêu chân chính tiến tới hôn nhân mới là hạnh phúc thật sự vì yêu đương nhau là thuộc về nhau trọn vẹn và kết hợp lại chồng và vợ tuy hai mà một, một tâm hồn cao quý, một thể xác tuyệt vời, cùng quý yêu nhau như yêu chính bản thân mình, không được ghét bỏ nhau cũng như không bao giờ phân rẽ. " Nghĩa vợ chồng gắn bó trăm năm, Tình chồng vợ thủy chung một dạ." • Ðể phong tục tập quán có một nền gốc có quy củ vững vàng. Người xưa đã đặt ra nghi lễ hôn nhân, ngoài sự nêu cao giá trị tối quan trọng câu nghĩa vợ chồng với tình cảm yêu đương cao quý cùng sự thủy chung vẹn nghĩa trọn tình, còn có mục đích tối hậu là bảo tồn tinh thần gia tộc, đề cao đạo hiếu thảo, rèn luyện con người biết tự trọng và tôn trọng lẫn nhau, biết giữ tròn nhân cách trong đời sống phù hợp với Ðạo Lý Luân Thường.• Tôn trọng và tuân hành đúng theo nghi lễ tất nhiên gặp không ít những điều khắt khe phiền toái, nhưng chính đó là yếu tố để bảo vệ tinh túy phong hóa dân tộc theo đà văn minh tiến bộ, phân biệt cái dở biết bỏ, điều hay phải theo, hầu duy trì vĩnh cửu lễ giáo gia phong thuần phong mỹ tục lưu truyền đến ngàn sau hậu thế soi gương. Cho dẫu yêu nhau thắm thiết đậm đà, chưa làm hôn lễ, chưa thành vợ chồng. (dứt lời, người điều hành lễ đưa ra mỗi bên hai cây nhang (họ trai, họ gái) cha mẹ hay đại diện tiếp lấy nhang xá và cắm vào lư nhang trên bàn thờ.3. Lễ bái gia tiên (phần 2) • Trao nhang xong người điều hành lễ khấn vái tiếp nói: Trai (họ tên) tay phải cầm lấy cây đèn rồng của rể và gái (họ tên) tay trái cầm lấy đèn phụng của dâu cầm chung lại và cung vòng tay vái: • Nay lệnh lang (tên họ người chồng) lệnh ái (tên họ vợ) được sự chuẩn thuận của đáng sinh thành và qua lễ đính hôn ngày tháng năm (âm lịch) vẫn đinh ninh tấc da như có trời sao. Như trăng có nước, như đũa có đôi, đồng nguyện cùng nhau thành vợ thành chồng, trăm năm nghĩa thắm tình nồng, tròn duyên trọn nợ một lòng sắt son. • Nay chọn được tháng đại lợi, ngày lành, giờ tốt, lạc thành lễ: vu quy, thành hôn, hợp hôn. • Chi thành khấn nguyện Hoàng Thiên Hậu Thổ Chí Linh, Tơ Hồng Nguyệt Lảo Thiên Tiên, chư vị Tổ Tiên Phụ mẫu, hiển linh chứng giám. • Nguyện cầu gia huệ cho hai họ hôn nhân (họ trai, họ gái) bá niên giai lão, tinh hoa cát luôn luôn thuận hão, nghĩa thông gia mãi mãi thắm nồng. • Nguyện cầu cho đôi hôn nhân (họ tên chồng, họ tên vợ) an khang trường thọ, trọn duyên nợ trăm năm hão hiệp, vẹn thủy chung hạnh phúc trọn đời, phận chồng biết cần biết kiệm, có nhân xứng danh chồng tốt, rể quý; hạnh vợ trinh hậu, đảm đang, đẹp nết vợ hiền, khéo thuận khéo tùy, rạng danh dâu thảo. • Luôn tâm niệm rằng tất cả kho báu trên thế gian này không có gì sánh được bằng hạnh phúc gia đình để cùng chung nhau đắp xây tô điểm ngày thêm ấm cúng vững bền, gia đình hòa thành, phúc lộc gồm hai, sớm trổ sanh trai hiếu gái hiền, vun bồi đức nghiệp cha ông, tông đường hai họ (họ trai, họ gái) đời đời rạng rỡ. • Trân trọng vạn vong. • Dứt lời người điều hành lễ hai tay đưa đèn ra hai bên. Họ trai, họ gái mỗi bên nhận đèn, xá 2 xá và trao cho người tiếp đèn cắm vào lư chân đèn. Khi đôi đèn đã cắm xong hoàn chỉnh, ngay ngắn. • Rể dâu cùng lạy tổ tiên 4 lạy. B. LỄ KHAI LỘC (DỠ MÂM TRẦU) (Lễ Vu Quy) Phù Lang • Người điều hành lễ, rể dâu đứng (y như lễ bái gia tiên) • Chuẩn bị hai đĩa bàn để đựng trầu cau • Cũng đốt 4 cây nhang, khi vái xong, dâu sẽ lấy trầu, nhớ lấy chẳn (6 lá hay 12 lá) để vô dĩa. Rể cũng tét cau, cũng chẳn 2, 4 hay 6 trái để vào dĩa trầu. • Hai đĩa, một cúng trên bàn thờ, một đĩa đem đãi cho hai họ ngồi (mấy bà). • Người điều hành lễ cầm 4 cây nhang cung vòng tay ngang tầm mắt vái lớn rõ ràng. Khấn Vái • Tục lệ từ HÙNG VƯƠNG, lưu mãi đến ngàn sau, sính phẩm lễ hôn nhân mâm trầu cau truyền thống, kết tinh tình cao quý, thủy chung đạo vợ chồng keo sơn nghĩa đệ huynh. • Chí thành khấn nguyện Hoàng Thiên Hậu Thổ Chí Linh, Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tôn, Chư vị Tổ Tiên Phụ mẫu. • Linh ứng chứng minh lễ khai lộc phù lang. • Nguyện cầu phò hộ cho đôi tân hôn ( họ tên chồng, họ tên vợ) Phù cho vật đổi sao dời.Tình chồng nghĩa vợ trọn đời bên nhau.• Phu thê giao bái: Chồng vợ cạn chung rượu trao đổi nhau và làm lễ giao bái giữ nhau. Cưới HỏiNam nữ thụ thụ bất thân là gì?• Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau. • Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. • Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau! • Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính. Mối lái là gì ?Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách. Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì trở thành ân nhân suốt đời. Ở xã hội mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối, các bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ người độc thân, các công ty dịch vụ....Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?• Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm". • Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "Công, dung, ngôn, hạnh". • Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ, mà cả những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu. Sự tích tơ hồngTơ hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng dây đỏ. Ông lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày có dính trang điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn bé, bà vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.Tục thách cướiThách cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên thân phận hẩm hiu.Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là quần áo, nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới...nên nhà trai phải bỏ cuộc hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ, song ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ làng, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu rằng con gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không.Hay các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được "võng anh đi trước, võng nàng theo sau".Tiền "Cheo"Tiền "Cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nh¬ng có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng.Để đáp lễ, đoàn đ¬a dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần dần có nhiều người lợi dụng vòi tiền, sách nhiễu, trở thành lệ tục xấu, triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám cưới được công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi.Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Đã hơn nửa thế ký, lệ làng này bị bãi bỏ rồi.Trước khi cô dâu về nhà chồng cần những thủ tục gì?• Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà. • Lễ xong, hai người đi mời chào thân nhân, khách khứa, trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô. • Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn. • Thời xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỷ niệm. Ý nghĩa của lễ xin dâu và thủ tục• Lễ này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. • Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi bất trắc nên mới định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ. • Thời gian này chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái, nên uỷ thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiềm trạm". • Trong trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một. • Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:o Khi đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp lại thứ tự đi trước đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một người đội lễ (mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. o Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào. Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?• Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay. • Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu:o Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. o Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ chồng bướĐám Giỗ Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nưước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.Tục bái vật là gì?Trong phong tục cổ truyền của ta có tục bái vật không?Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới cho rằng mọi vật do tạo hoá sinh ra đều có linh hồn. Mỗi loại vật, kết cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Lúc đó người ta chưa phân biệt thế giới hữu sinh và vô sinh. Con người chưa thể lý giải nổi những yếu tố thiên nhiên xung quanh chi phối mình như thế nào nên các vật như hòn đá, thân cây, con vật có quan hệ mật thiết với họ đều được họ tôn thờ như thần linh. Trong ngôn ngữ nhiều nước ở châu Âu (như tiếng Pháp) mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái.Đó là chứng cứ xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là một biểu tượng, nơi ẩn hiện của một vị thiên thần hoặc nhân thần nào đó. Người ta "Sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó không thuộc vào tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, Lễ Thần, quì trước long ngai của Thần, những Thần đó có thần hiệu rõ ràng, chứ không phải lạy khúc gỗ hòn đá như tục bái vật. Xưa, xa xưa, ta có tục bái vật không? Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi con dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng luôn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vức ở chỗ ô uế.Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Nhân dân không ai được dùng gỗ chò làm nhà riêng. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy, lạy gốc chứ đã phải lạy thần đâu!Còn như tục kiêng vứt chân hương vào thùng rác hoặc chỗ dơ bẩn, kiêng dùng giấy có chữ Nho vào việc uế tạo người ta cũng thận trọng cất đi, đó là vì ý thức tôn sùng thần linh, cụ thể là đức Khổng Tử, chứ không phải là sợ hồn của chân hương hay tờ giấy. Đó không phải là tục bái vật.Lễ cúng giỗ vào ngày nào?Lễ cúng giỗ vào đúng ngày mất hay trước ngày mất một ngày? Có người cho rằng phải cúng vào ngày đang còn sống (tức là trước ngày mất), có người lại cho rằng "trẻ dôi ra, già rút lại", vậy nên chết trẻ thì cúng giỗ đúng ngày chết, còn người già thì cúng trước một ngày. Vậy có câu hỏi: "Người trung niên chết thì cúng vào ngày nào"?Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.Nguyên ngày trước, "Lễ Giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ": chiều hôm trước lễ chính kỵ có "Lễ tiên thường" (Nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa phương. Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ở mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng nơi.Kết luận: Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết.Ngày cúng giỗ• Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. • Nguyên ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần những hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng. Mấy đời tống giỗ• Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo. • Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà, cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ. Cúng giỗ người chết yểu• Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự. • Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống trong gia đình. Điều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưsởng vọng đối với thân nhân đã khuất. Cúng giỗ và mừng ngày sinh?Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp thăm người thân trong gia đình, trong chi họ, dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng gọi là "trước cúng sau ăn", có mất đi đâu, cũng là để cho cuộc họp mặt thêm đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sinh hoạt, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Mà việc chi phí cũng không dồn lên đầu một ai vì ngoài phần do hương hoả mà có, mỗi người đều đóng góp bằng tiền mặt hoặc hiện vật, nên mới có từ "góp giỗ", với ý nghĩa trên- "Uống nước nhớ nguồn"- việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục, nếu như người ta loại bỏ được những hủ tục có tính chất mê tín dị đoan, nếu như không bị lợi dụng một cơ hội cho bọn hãnh tiến khoe của bằng mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị, cho những ông tham nhũng dựa vào chức quyền nhận lễ giỗ hậu hĩ, một thứ đút lót trá hình.Chính vì thể theo phong tục đó mà nhà nước ta đã giữ gìn việc tổ chức trang nghiêm ngày giỗ của các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước như ngày giỗ tổ Hùng Vương, hội đền Kiếp Bạc... Cho nên, theo tôi, giữ gìn tục lệ đó theo ý nghĩa trong sáng của nó không có gì phải bàn.Thế còn ngày sinh?Phương tây có tập quán mừng ngày sinh là chính.Tôn giáo Đông Tây cũng coi trọng ngày sinh, Phật giáo có ngày "Bụt sinh Bụt đẻ" (Phật Đản 8-4 Âm Lịch), Ki tô giáo có ngày Chúa giáng sinh (Nô- en 25-12 Dương lịch). Do giao lưu văn hóa, giao tiếp quốc tế, Nhà nước ta đã tiếp nhận tập quán quốc tế đó nên đã tổ chức trọng thể ngày sinh Bác Hồ, Mừng thọ các nhà lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước.Từ khi ra đời, các hội thọ hàng năm thường tổ chức mừng thọ cho các cụ vào những năm chẵn 70, 75, 80... Một số đoàn thể cũng tổ chức mừng thọ cho hội viên của mình. Việc tổ chức mừng thọ có tính chất đại trà, không đúng ngày đó không thể thay thế cho việc mừng thọ đúng ngày sinh, ấm cúng trong gia đình. Cho nên, tôi nghĩ rằng các gia đình chúng ta nên tổ chức mừng ngày sinh cho mọi thành viên trong gia đình, đặc biệt lưu ý đến ông bà già là những người đang cảm thấy cô đơn. Hiện ngay rất nhiều gia đình đã tổ chức mừng ngày sinh con, thường là hai cháu, nay thêm hai vợ chồng, một năm bốn lần mừng ngày sinh, dư dật thì có mâm cơm thịnh soạn, tặng phẩm tươm tất, thiếu thốn thì bữa cơm tươi hơn thường ngày, quà tặng giản đơn. Người còn cha mẹ nếu ở chung thì thêm hai lần ăn mừng ngày sinh, cũng tùng tiệm như trên. Nếu ở riêng thì đồng quà tấm bánh vừa với túi tiền tặng cha mẹ, cốt thể hiện tấm lòng ưu ái, tăng thêm sự ấm cúng trong gia đình, giúp tuổi già đỡ cảm thấy cô đơn. Mừng ngày sinh một cách giản dị như vậy thiết tưởng cũng không phải cái gì cao xa ngoài tầm tay của những gia đình còn thiếu thốn. Cũng cần thêm một lý do nữa khiến ta coi trọng ngày sinh là bản thân người đó được hưởng khi còn sống, dù là một món ăn tươi còn hơn mâm cao cỗ đầy cúng vái khi sang thế giới bên kia. ở chỗ này có thể nhắc đến một lời chê bai của người xưa:Khi sống thì chẳng cho ănĐến khi chết xuống làm văn tế ruồi(Đặng Văn Phủng - Trích "Hà nội mới chủ nhật ", số 119)Lời bàn thêm của tác giả:Chúng tôi trích dẫn bài trên của ông Đặng Văn Phủng và có lời bàn thêm sau đây:Lễ giỗ được xếp vào loại thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Mừng ngày sinh là phong tục Âu Tây có ý nghĩa hay. Theo phân tích của ông Phủng thì kỷ niệm ngày sinh hay hơn là giỗ. Ngặt vì mấy ai nhớ đến ngày sinh của bản thân mình. Trước năm 1945 cũng chưa dễ mấy ai biết chính xác, trừ một số ít con công chức cũ ăn lương phải có giấy khai sinh chính thức hoặc ai còn may mắn giữ được lá số tử vi, ngược lại hầu hết các gia đình còn ghi nhớ ngày giỗ của cha mẹ, ông bà. cụ kỵ. Dầu cho khi cha mẹ còn sống, con cháu đã được tổ chức kỷ niệm ngày sinh, nhưng nhớ đến ngày ông bà cha mẹ qua đời, mà trên bàn thờ hương tàn khói lạnh cũng cảm thấy áy náy trong lòng.Vì vậy ở nước ta, nhà nào tổ chức kỷ niệm ngày sinh càng hay, nhưng chưa có nhà nào bỏ được lễ giỗ.. Dạy con từ thủa bào thai Tục ngữ Việt Nam có câu: "Dạy con từ thủa còn thơ - Dạy vợ từ thủa bơ vơ mới về".ở đây chúng tôi muốn nêu: Không những dạy con từ thủa còn thơ mà phải dạy con ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Bởi vì cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của người phụ nữ mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tinh thần của đứa trẻ sau này.Người xưa thường nói: "Đàn bà hiền dịu, thì dễ có con. Thai sản là lẽ tự nhiên của trời, đất. Người không bệnh thì không cần phải uống thuốc".Theo y học cổ truyền "...Tâm khí kinh sợ thì con bị điên, thận khí không đủ thì con hở thóp, tì khí không hoà thì con gầy còm, tâm khí hư kém thì con nhút nhát. Con là theo khí mẹ, mẹ không cẩn thận sao được! Mẹ chớ uống nhiều thứ thuốc, uống nhiều rượu, chớ châm cứu xằng xiên, chớ đi đại, tiểu tiện vào chỗ không thường đi, chớ trèo cao xông pha hiểm trở, chớ gánh vác nặng nhọc, chớ giao cấu phóng túng, chớ nằm ngủ nhiều, chớ mặc áo quần quá ấm, chớ ăn cơm quá no. Tinh thần phải chấn tĩnh, không phạm đến thất tình ( mừng quá, giận quá, đau thương quá, ghen ghét quá, yêu quá, ham muốn quá v.v...). Muốn con sau này sinh ra thẳng thắn nghiêm trang thì người mẹ nên miệng nói lời ngay thẳng, làm việc ngay thẳng. Đàn bà rắp tâm làm việc ác thì không sinh đẻ được, người ta cứ tưởng là tại trời ghét bỏ, biết đâu rằng: Đó chính là do tự mình gây ra. Vì khí ở gan ruột bị uất kết, ba bộ mạch: tâm, tì, thận đều bị uất nên khó sinh..." (Theo "Phụ đạo sán nhiên" của Hải Thượng lãn ông).Vì lẽ đó dân gian có câu: "Cây khô không có lộc, người độc không có con".Cần phải giáo dục con từ trong bụng mẹ mà thuật ngữ khoa học gọi là "Thai giáo". Ngày xưa các bậc tiền bối đã răn dạy người mẹ tương lai (sản phụ) không được giận dữ, hoảng hốt, không được nghĩ điều xấu, làm việc xấu, nghe chuyện dở, nhìn cảnh tang thương, cần nói năng, đi đứng khoan thai...Có mối liên hệ khăng khít giữa thai nhi với sức khoẻ và tâm trạng người mẹ, giữa thai nhi với thế giới bên ngoài, có những phản ứng "Tiếp nhận" hoặc "Chối bỏ" của thai nhi trước các tác động của ngoại cảnh.Theo tài liệu nghiên cứu khoa học: Nhân cách con người được hình thành rất sớm, ngay từ trước khi ra đời. ý nghĩ, cảm xúc và những nỗi buồn vui của người mẹ truyền vào đứa con. Nhiều phụ nữ có thai đã biết giữ gìn tình cảm cân bằng do đó giữ được sức khoẻ cho đứa con. Những nỗi đau của người mẹ phải chịu đựng trong thời gian thai nghén ảnh hưởng mạnh tới đứa trẻ sơ sinh. Lòng thiết tha đối với đứa trẻ chưa ra đời là một biện pháp giữ gìn sức khoẻ cho đứa trẻ tốt nhất, và có ảnh hưởng quyết định tới quan hệ mẹ con sau này"...2. Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh?Cách trả lời đơn giản nhất là xin để lấy "khước" (lấy may). Người mẹ từ khi mới thụ thai đã chú ý xem trong bà con, họ hàng, làng xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít khóc ít quấy, ao ước sắp tới con mình đẻ ra cũng được như thế thì xin một cái áo, hay cái quần, cái tã cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình. Xuất xứ là do một vài người làm, rồi bắt trước nhau, dần dần là truyền ra thành phong tục. Nguyên ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gian, thị trường toàn những vải thô bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hài nhi càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy. Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại, dành cho em út. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.3. Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng tại sao?Con so là con sinh đầu lòng, con rạ là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là thứ. Phong tục này phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoài Bắc, còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình.Con gái mới lớn lên, mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao, hơn nữa trong người yếu khoẻ ra sao muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình. Còn những lần sinh sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc.Phong tục, "Con so về nhà mạ" là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có thu xếp: Gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể sang quê ngoại thưa chuyện trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường xá xa xôi cách trở cũng cần thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi mẹ tròn con vuông, cháu cứng cáp, chàng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm ngày tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về. Ông bà ngoại còn cẩn thận đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và các thứ bùa phép khác để các thứ tà ma ác quỷ không dám đến quấy rối cháu dọc đường.ở Nghệ Tĩnh lại có phong tục ngược lại: Cho là sinh dữ tử lành, ngoài con dâu ra, không ai được quyền sinh trong nhà. Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động thai, trở dạ, không kịp trở về nhà chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ.Thiết nghĩ không cần phân tích, bạn đọc cũng thấy được phong tục nào hợp tình lý hơn.Trường hợp đã mồ côi mạ, về nhà mạ thiếu người chăm nom thì con so cũng về nhà chồng.4. Tại sao khi mới đẻ chưa đặt tên chính?Theo phong tục, một người từ sinh ra đế khi chết mang rất nhiều tên gọi: Mới lọt lòng thì thằng Cu, thằng Cò, con Hĩm, thằng Mực, con Cún, thằng Chắt em, con Chắt ả... thường là đặt tên xấu cho dễ nuôi, đến khi lớn lên thì anh Hai, anh Ba, chị Bảy... lấy vợ lấy chồng thì anh Nhiêu, anh Đồ, chị Xã...Có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu, đến khi chết thì đặt tên hèm gọi là hiệu để cúng, người có học thì tự đặt tên tự, người có chức tước thì đặt tên thuỵ, người có chức tước học vị cao sang thường được xưng tôn theo họ, hay tên địa phương: Cụ án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, ông Trạng Trình, ông Tú Vĩ Xuyên, Quan Thám Nam Sơn... Đó là theo phong tục xưng hô của Trung Quốc. Trong nhiều tên gọi nhưng chỉ có tên huý là chính: Tên huý là tên đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ, khi đi học đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ, khi đi học.Tại sao mới đẻ chưa đặt tên chính (tên huý)?Ngày nay đẻ ra la khai sinh, có thủ tục quản lý hộ tịch chặt chẽ. Ngày trước mỗi làng xã cúng có hương hộ lo sổ sách sinh tử, giá thú nhưng không quản lý chặt chẽ, Nhà nước chỉ quan tâm đến sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để thu thuế và bắt lính, bắt phu, vì vậy vào sổ làng càng muộn càng hay, lớn lên đỡ được vài năm thuế thân, phu phen tạp dịch.Trong xã hội cũ, tình trạng hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, ít có gia đình sinh năm đẻ bảy được vuông tròn, vì vậy qua các tuần cữ mới tạm yên tâm, khi đó mới đặt tên huý.Các họ mỗi năm tế tổ một lần. Trong dịp tế tổ, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ và vào sổ họ cho các con trai trước lễ yết cáo, ngày đó mới có tên huý chính thức, được họ hàng công nhận. Trong khi vào sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân hay không. Nếu có tức là phạm huý thì phải đổi tên. Không những phải tránh phạm huý tổ tiên bên nội mà còn phải tránh phạm huý can cụ ông bà ngoại mặc dầu khác họ, tránh phạm huý hiệu của thành hoàng, thánh mẫu, linh thần từng địa phương. ở nông thôn, các vị có uy vọng trong làng, trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời.5. Tại sao tuổi trong khai sinh, trong văn bằng không đúng với tuổi thật?Điều này cũng gây khá nhiều rắc rối, phức tạp cho các nhà khảo cứu sử học, biên soạn gia phả. Đã có trường hợp anh em cùng cha cùng mẹ sinh ra mà em nhiều tuổi hơn anh. Chỉ có lá số tử vi là chính xác nhất, chính xác đến từng giờ, nhưng ít người còn giữ được lá số tử vi, phần lớn ông bố bà mẹ chỉ nhớ được con mình câm tinh con gì, qua đó mà tính ra tuổi thực (tuổi mụ).Như trên đã nói, có ba lý do khai bớt tuổi: - Để chậm được vài năm khỏi phải đóng thuế thân và đi phu, đi lính. - Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hạn định quá tuổi không được đi học, không được thi. - Do việc vào sổ họ chậm gần một năm còn việc vào sổ làng, hàng phe, hàng giáp, có khi chậm đến năm sáu năm. Trường hợp nâng tuổi lên cũng có ba lý do nhưng không phổ biến lắm: - Để nhanh đến tuổi lấy vợ (theo lệ "nữ thập tam, nam thập lục"). Nhiều gia đình muốn cưới con dâu về sớm để có kẻ ăn người làm và để sớm có cháu nối dõi tông đường. - Dưới thời Pháp thuộc, các công sở không tuyển người dưới 18 tuổi nên phải khai tăng tuổi. - Một số địa phương, có lệ làng cho tăng thêm tuổi để chóng đến tuổi lên lão mừng thọ.6. Làm lễ yết cáo tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ họ như thế nào?Vấn đề này đã có lệ từ xưa, chẳng có gì mới mẻ. "Họ nào đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hành".Đối với những họ mới phục hồi lại việc họ, chưa vào nền nếp, chúng tôi xin mách một vài kinh nghiệm: 1. Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm thủ tục khai sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường xuyên trong nhà. Lễ yếu cáo tổ tiên rất đơn giản, nén hương, cơi trầu, chén rượu cũng xong, thường kết hợp lễ tế tổ hàng năm mà yết cáo chung tất cả con cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào số họ cũng đơn giản, cốt sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức. 2. Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước, sinh sau ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ, thì phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối với những trẻ sơ sinh.Mẫu số: Họ Tên (Tên Huý. Tên thường gọi) con ông bà, thuộc đời thứ mấy, chi thứ mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngày tháng, năm, sinh, ngày vào sổ họ. 3. Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ họ đối với con gái, cho rằng "Nữ nhân ngoại tộc", con gái là con người ta, lớn lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái vào họ. Tuy vậy, ngay trước CM T8-1945 một số họ đã xoá bỏ điều bất công đó, con gái cũng có mọi quyền lợi nghĩa vụ như con trai. Ngày nay, trong phong trào khôi phục việc họ, xin kiến nghị các họ đặc biệt quan tâm đến con gái và nàng dâu của họ, họ nào coi trọng vai trò phụ nữ, và coi trọng vai trò người mẹ, người vợ, người cô, người chị, thì họ đó mới vững mạnh. Cả nước đang ra sức vận động kế hoạch hoá gia đình, con gái cũng như con trai, vậy nên vận dụng phong tục cũng phải phù hợp với tư duy thời đại.7. Có mấy loại con nuôi?Có ba loại con nuôi: Con nuôi chính thức, con nuôi danh nghĩa và con nuôi giả vờ.Con nuôi chính thức: Có hai loại :- Con lập tự : Gia đình không có con trai, nuôi con anh em ruột hoặc con anh em chú bác ruột. Có thể nuôi từ bé, hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã thành gia thất, có con rồi mới nhận làm con nuôi. Người con nuôi lập tự đó chịu trách nhiệm săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế sau khi mất, nên khi được hưởng quyền thừa kế gia tài hơn cả những người con gái do chính cha mẹ sinh ra, vì con gái là "con người ta", sau khi gả chồng lo cơ nghiệp nhà chồng. Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hoả nếu cha nuôi là tộc trưởng, được họ hàng chấp nhận là cùng huyết thống nội thân. Nếu người con nuôi lập tự là con thứ của ông em thì con người con trưởng của ông em vẫn phải gọi người con nuôi lập tự đó bằng bác (đáng lẽ gọi là chú) . Khi cha mẹ nuôi chết, tang chế của vợ chồng người lập tự cũng ba năm như cha mẹ đẻ. Trường hợp cha mẹ chết trước, phải xin phép cha mẹ nuôi mới được về chịu tang, nhưng không được phép mặc áo khâu gấu, khăn ngang không được để hai giải bằng nhau. Khi cha mẹ nuôi đã sinh con trai thì thôi quyền lập tự nhưng vẫn là con nuôi được hưởng quyền thừa kế như các người con khác.- Con nuôi hạ phóng tử: Có mấy trường hợp: + Con hoang thai nuôi từ lúc mới sinh. Có nhà hiếm hoi dặn từ trước, khi sinh nở thì đón về, sản phụ được bồi dướng một ít tiền và sau đó không được quyền nhận hay thăm con. + Con mồ côi hay con nhà nghèo khó, đem về nuôi là phúc, mặc dầu không hiếm hoi. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được hưởng mọi quyền lợi trong gia đình. Cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm dựng vợ gả chồng, sống nuôi chết chôn, cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tài khi ra ở riêng. Trường hợp cha mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con này làm thừa tự, song không được can dự vào phần hương hoả, tự điền cũng như việc họ, bởi lẽ khác dòng máu, không được họ chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi cũng ba năm như cha mẹ đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột, nhưng đối với họ hàng bên bố mẹ nuôi thì không tang. Trừ một trường hợp con nuôi đã mang họ của bố nuôi, không biết bố đẻ (hoang thai) và đã được họ hàng chấp nhận thì mọi lễ nghi hiếu hỷ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng hương hoả, tự điền. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc trưởng thuộc con trai trưởng của chú em. Theo phong tục một số địa phương "vô nam dụng nữ" thì người con rể cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để tang bố mẹ vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoài ra không để tang cho ai bên nhà vợ. Lập tự chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể. Cháu ngoại cũng không được làm tộc trưởng (như trên).Con nuôi danh nghĩa: Có mấy trường hợp: - Nhà hiếm con qua mâý lần tảo sa, tảo lạc, hữu sinh, vô dưỡng, hoặc theo số tử vi lỗi giờ sinh, xung khắc với cha mẹ nên phải bán làm con nuôi cho dễ nuôi. Khi sinh nở xong bố đẻ sẵn một chai rượu, cơi trầu đến nhà bố nuôi, làm lễ gia tiên bên bố nuôi xin cho ghé cửa nương nhờ, sau đó mời bố mẹ nuôi đến nhà xem mặt đứa trẻ và nhường quyền cho bố nuôi đặt tên cho đứa bé. Sau này khi lớn lên thì mồng 5 (đoang ngọ) ngày Tết dắt đứa bé đến tết nhà bố mẹ nuôi. Đứa bé cũng xếp theo vị trí anh em ruột một nhà theo quan hệ lứa tuổi. Sau này lớn lên, trong huyết thống ba đời anh em cháu cháu không được quyền lấy nhau. Nếu vi phạm cũng coi như mắc tội loại luân. Chọn Bố mẹ nuôi thì chọn gia đình phúc hậu, lắm con nhiều cháu, làm ăn thịnh vượng. - Do cảm ân đức, nghĩa tình nhận làm con nuôi. - Anh em kết nghĩa với nhau thân tình, nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ của mình và ngược lại bố mẹ cũng nhận người anh em kết nghĩa với con mình như con cái trong nhà. Trong những trường hợp đó, người Việt thì gọi chung là con nuôi, bố mẹ nuôi nhưng âm Hán gọi là "nghĩa phụ nghia tử" khác với "nghĩa phụ tử", tang chế không quy định cho trường hợp "dưỡng phụ dưỡng tử", nếu có gả con cho nhau thì càng tốt đẹp "thân thượng gia thân".Con nuôi giả vờ: Vì con khó nuôi, sợ ma ta quấy nhiễu người mẹ đem con bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người trực sẵn đưa về nuôi, sau vài giờ hoặc vài ngày đến chuộc nhận làm con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ thành con nuôi, con nuôi là con đẻ để lừa ma. Trường hợp này đành rằng phải thông cảm y ước trước, nhưng cũng phải chọn người mắn đẻ, con không sài đẹn, nuôi súc vật mát tay... Ngoài ba loại con nuôi dương trần nói trên, còn có tục "bán khoán" con cho thần linh như bán con cho Đức Thánh Trần, Đức thánh Mẫu... Đã là con thần thánh, có tấu, có sớ, có bùa, có dấu ấn hẳn hỏi thì mà quỷ không dám bén mảng đến đã đành mà bố mẹ nuôi con cũng phải đặc biệt chú ý: Không cho con ăn uống những thứ uế tạp, phải mặc đồ sạch sẽ, không được vá chằng vá đụp, không để con bò lê la, không được chửi rủa xỉ vả con, sợ ngài gọi về trời. Con chỉ được gọi cha đẻ bằng thầy, bằng cậu... Gọi mẹ bằng mợ, bằng chị, bằng u, bằng đẻ. Hai từ "Cha, mẹ" chỉ được tôn xưng với thần thánh. Bán cho Đức Thánh Trần chỉ được xưng họ Trần khi khấn vái, bán cho phật phải xưng Mầu, nhưng bán cho đức thánh mẫu là Liễu Hạnh không phải đổi họ. Sở dĩ gọi là "bán khoán" vì chỉ bán thời gian còn nhỏ để dễ nuôi. Đến tuổi 13 tuổi tức hết tuổi đồng ấu, đến tuổi vào sổ làng xã thì làm lễ xin chuộc về. Chính thể mới hiện nay công nhận con nuôi cũng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang con đẻ, đó là con nuôi thực sự được chính quyền địa phương công nhận trên cơ sở thoả thuận giữa người nuôi và người đẻ hoặc giữa người nuôi và thân nhân đỡ đầu trong trường hợp bố mẹ đẻ không còn. Đứa bé đếm tuổi thiếu niên cũng được quyền tự nguyện xin làm con nuôi, chọn bố mẹ nuôi. Bố mẹ nuôi có thể nuôi nhiều con tuỳ theo khả năng, nhưng không thể nhận làm con nuôi của nhiều gia đình. Tuổi bố mẹ nuôi phải cao hơn tuổi con nuôi ít nhất 20 tuổi. Tết nguyên đán có từ bao giờ?Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương.Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần.Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm.Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau.Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.* (Trích bài "Tết Nguyên Đán" của Nguyễn Đình Khang)Ngày Tết có những phong tục gì?Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu... Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm).Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.Tống cựu nghênh tân: cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen.Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi: ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc phước dồi dào". Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính.Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm.Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Giá như phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính giá yêu trẻ... thì đất nước quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh, bộ máy pháp luật bớt đi bao nhiêu khó khăn.Vì sao có tục kiêng hót rác đổ đi trong ba ngày tết?Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám hót rác ngày Tết.Tục kiêng hót rác ba ngày Tết nên ngày 30, dầu bận rộn đến đâu cũng phải dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và những ngày Tết thì mọi người phải hết sức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.Tại sao cúng giao thừa ngoài trời?Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có vị trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam... thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ.Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì.Nhưng phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Ví cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm đến chủ hảo tâm mà phù hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt.Biết thấu tâm lý của người giàu, các cụ ta đã có nhiều câu chuyện răn đời để người ta hiểu rằng: Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.Tại sao có Tết Hàn Thực?Theo phong tục cổ truyền, ngày mồng 3 tháng 3 tức Tết Hàn Thực, ta làm bánh chay. Tết này có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi, một hiền sĩ có công phò Tần Văn Công, bị chết cháy ở núi Điền Sơn. Cũng như ngày mồng năm tháng năm tết Đoan Dương cũng xuất xứ từ bên Trung Quốc làm giỗ ông Khuất Nguyên bị chết trôi ở sông Mịch La. Ngày nay người Trung Quốc đã bỏ lễ đó mà ta còn giữ mãi.Đành rằng dân ta theo tục đó nhưng khi cúng chỉ cúng gia tiên nhà mình, chẳng nhắc gì tới ông Giới Tử Thôi hay Khuất Nguyên Nữa.ở nước ta có bao nhiêu lương thần, dũng tướng, hiền sĩ có công huân với dân với nước mà chẳng được kỷ niệm trọng thể bằng hai ông người nước ngoài nói trên. Ngày 10 tháng 3, sao bao nhiêu đời nay vẫn không chuyển đổi được để mọi nhà, mọi làng xã làm giỗ tổ Hùng Vương có ý nghĩa hơn không! Thật đúng như câu tục ngữ "Mồ cha không khóc, khóc tổ mối"!Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 tháng 5) có những tục gì?Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Vì vậy các cụ thường nói "Mồng 5 ngày Tết". Học trò tết thầy, còn rể tết bố mẹ vợ... quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai lễ Tết đó.Tết Đoan Dương còn nhiều tục lưu truyền đến nay; sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu (hoà ít tam thần đơn) hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu. Vì là đoan ngọ nên lễ cúng gia tiên phải cúng vào giờ ngọ (buổi trưa). Tục hái thuốc mồng năm cũng bắt đầu từ giờ ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể. Tuy vậy, nhân dân ta quen dùng thảo mộc chữa các chứng bệnh, biết phân biệt loại có độc, chẳng hạn lá ngón, cà độc dược, lá sắn... dẫu người nặng đầu óc mê tín cũng chẳng dám hái. Ngược lại, các cây cỏ chữa bệnh thông thường có tác dụng trừ phong ích khí thì hái nhiều hơn như ích mẫu, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do tạo hóa sinh ra đều có linh hồn, mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái. Đó là xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta. Ở nước ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần hay nhân thần nào đó. Người ta "sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó không thuộc tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần, quì trước long ngai của thần, nhưng thần hiệu rõ ràng, chứ không phải khúc gỗ hòn đá như tục bái vật. Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế. Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng gỗ chò làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.LỄ CƯỚI Ðà ÐỊNH SẴNVẤP PHẢI LỄ TANG TÍNH NHƯ THẾ NÀO ? Đó là trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng".Vui và buồn dồn vào một lúc."Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản "trừ hao" : "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho phép con cháu nô đùa ầm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn. Trong trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường hợp có Quốc Tang cũng như vậy.Ông Mai... Bà Mai... Trong cuộc Hôn Lễ có ông mai và bà mai, bà mai tiếng ở miền Bắc gọi là mụ mối. Ông mai, bà mai rất có công trong cuộc tạo thành gia thất của đôi nam nữ sau này. Nhưng, vậy mà người đời cũng có những câu mỉa mai hơi vui như vầy : " Trong đời có bốn cái ngu, " " Làm mai, lãnh nợ, mồi cu, cầm chầu. " Ông mai, bà mai - thường thường người ta lựa người có tuổi tác, đủ vợ đủ chồng, và cũng thường gầy dựng cho nhiều đôi vợ chồng được hoàn toàn. Bên nhà trai biên canh thiếp tên họ và mấy tuổi của người con trai đưa sang nhà gái, dĩ như nhà gái bằng lòng cho đi coi mắt thì nhà gái cũng trao canh thiếp cho biết cô ấy tên họ gì, mấy tuổi, sanh tháng nào.v.v... Vì hồi xưa một họ với nhau gọi là đồng tông tộc, họ không khi nào cưới hỏi lấy nhau. Chớ không phải nông nổi như bây giờ, mà bà con có khi lấy nhau bậy bạ. Lễ đầu tiên trao canh thiếp là Lễ Vấn Danh hay là cầu thân. Lễ thứ hai là Lễ Sơ Vấn, tức là Ông Mai đến nhà gái xin cho biết nhà trai bằng lòng kết tình thông gia với nhà gái, và xin cho bên nhà gái biết ngày làm lễ đám hỏi mà chữ gọi là Ðại Ðăng Khoa. Lễ Ðám Hỏi tuy vậy mà quan trọng hơn lễ cưới, có nơi còn gọi là " Hàng Rào Thưa ". Trong lễ này, lễ vật trọng yếu là một đôi bông tai ( đôi bông tai ví như cái " Hoa " con gái), trầu cau và một đôi đèn là lễ vật chánh, còn những vật phẩm khác như trà, bánh, rượu là phụ thuộc; nhà giàu sang thì bông tai hột xoàn, hoặc thêm dây chuyền hay vòng vàng cũng được. Thường thường lễ hỏi thì bên nhà gái có mời bà con thân thuộc trước một bữa thiết tiệc đãi đằng. Cho nên có khi người ta nài bên trai phải đài thọ, lễ ấy nhiều tiền hay ít do hai bên thỏa thuận. (Hồi xưa, con heo đám hỏi nhiều lắm là 20 đồng bạc.) Lễ đám hỏi bên nhà trai qua nhà gái ít người bà con thân thuộc, lẽ cố nhiên là có ông mai, bà mai, ông sui trai và bà sui trai. Như nhà khá giả thì có người phục rể, người phụ rể thì bưng khay trầu rượu. lễ này có têm bốn miếng trầu cau, hai cái chung. Hồi xưa, đám cưới, đám hỏi người ta rót rượu bằng cái chung miệng tròn, có ý nghĩa " Thủy chung như nhất "; còn đựng rượu thì dùng cái bầu có ba khía gọi là cái " Cô ", chứ không phải dùng cái nhạu rượu như bây giờ. Bộ khay hộp gồm có bốn miếng trầu cau và rượu, chú rể mang cái quả đỏ trong ấy có một đôi bông tai cho nàng dâu, và ngoài cái quả là cặp đèn để đốt cúng ông bà bên gái. Lễ này, chú rể mới của nhà gái có mặc áo rộng ( áo thùng ) bên ngoài. Trong khi họ nhà trai đến nhà gái thì để Ông Mai vô nhà trước, rồi đến ông sui trai, bà sui trai và họ hàng đi tiếp theo sau. Chú rể đi vô sau, khi bước vào chú rể nên đi chậm rãi và cúi đầu chào họ hàng bên nhà gái. Khi bên nhà gái mời quan khách an tọa xong, rồi thì đoạn Ông Mai trình bày lễ phẩm của nhà trai đem sang và lên đèn để cho chú rể làm lễ (Từ Ðường) và họ hàng bên gái. Chú rể mới không được ngồi chung với quan khách trong khi chưa làm lễ Từ Ðường và họ đàng gái. Sau khi trình lễ xong rồi thì bên gái mời vị nào lớn hết trong họ hàng mở cái quả đỏ có để đôi bông tai cho nàng dâu của nhà trai, trong giai đoạn này thì bên nhà gái cho gọi cô dâu ra nhận lễ và chào mừng họ hàng nhà chồng. Cô gái bẽn lẽn nhận lễ và mừng thầm... Sau khi lễ này xong rồi thì chú rể mới chính thức xưng hô là con rể của nhà gái. Tiệc tùng viên mãn tự nhiên, họ đàng trai xin kiếu ra về, chú rể ở lại về sau, nếu như đường sá xa xôi bất tiện thì bên gái cũng cho phép chú rể về theo một lượt với họ nhà trai. Khi quan khách kiếu từ ra về, cô dâu mới cũng ra đưa khách và cha mẹ chồng tương lai một cách thích thú và vui mừng. Như vậy là xong lễ hỏi vợ. Sau khi xong lễ đám hỏi, cô dâu tương lai sẽ đi biếu trầu cau và quà bánh của nhà trai cho họ hàng lối xóm. Ý của người xưa bày ra như vậy có nghĩa là cho trong láng giềng biết rằng con gái mình sắp có nơi trao thân gửi phận. Sau khi xong lễ hỏi rồi, cứ mười lăm ngày thì chàng rể tới nhà cha mẹ vợ thăm viếng một lần, nhằm ngày Mùng 1 và Ngày Rằm, sự thăm viếng này để cho chàng và nàng quen nhau, vì hồi xưa trai gái ít được tự do như bây giờ. Ðến mùng 5 và ngày Tết, chàng rể luôn luôn đi tết quà bánh bên nhà gái và Ông Mai; và có cuộc lễ gì quan trọng thì hai đàng sui gia mời nhau luôn. Chàng rể mới đi trình diện bên nhà gái mà tục gọi là "Ði làm rể", một sự thích thú của thanh niên thôn quê hồi xưa, sự sung sướng nhất đời là ngày đi đến nhà cha mẹ vợ thăm người bạn chăn gối tương lai của mình. Chàng rể "đi làm rể" luôn luôn mặc áo dài, đầu bịt khăn xéo, không bịt khăn đen. Nhưng, như vậy khi đến nhà cha mẹ vợ gặp việc gì nặng nhọc, chàng cũng làm giúp hẳn hoi. Sự đi làm rể như thế, chừng nào ông già vợ hoặc bà già vợ cho về thì mới được về./.Việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... Việc gì thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Ðến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngày.Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng Ðế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.Ðại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy. Những ngày ấy là: 1. Ngày 13 tháng giêng 2. Ngày 11 tháng hai 3. Ngày 9 tháng ba 4. Ngày 7 tháng tư 5. Ngày 5 tháng năm 6. Ngày 3 tháng sáu7. Ngày 8 tháng bảy 8. Ngày 29 tháng bảy 9. Ngày 27 tháng tám 10. Ngày 25 tháng chín 11. Ngày 23 tháng mười 12. Ngày 21 tháng một 13. Ngày 19 tháng chạpHễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành. Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi. Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu. Nói qua mấy việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy. Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá, trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan phù... Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng đạo.Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:Dần, thân gia tý mão dậu dầnThìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thânTị, hợi thiên cương tầm ngọ vịSửu mùi tòng tuất định kỳ chânLại cần phải nhớ hai câu:Ðạo viễn kỷ thời thông đạtLộ dao hà nhật hoàn trình.Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấn mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo... Xét phép chọn ngày, từ đời Ðường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.Ðến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Ðã đành làm việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ?(Trích "Việt Nam Phong Tục" Phan Kế Bính) Có ngày tốt hay xấu không ? Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hành... còn nhiều người, nhiều nơi chú trọng ngày lành.Ðó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan, một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng". Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro! Ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút.Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. Thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới, có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yếu tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải tránh giờ nào...Ða số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều kiêng đó không ảnh hưởng gì mấy tới công việc cũng như kinh tế...Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Ðã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiếu thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu... Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?Ðể đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan Kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục" xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương. Có ngày tốt ngày xấu không ? Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bão: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao? Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý, "bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người. Nhịp sinh học đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngày đêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Phát hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn). Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biển đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thường lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc-ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều. Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yếu tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ trí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ)thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Ðối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Ðối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Ðặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường xảy ra tai nạn lao động. Ðối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người. Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trùng hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ. Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hẳn 50%. Theo Cup-ria-mô-vít (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung. Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể.(Bác sĩ Vũ Ðịnh - Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73) Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ. Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rằng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thôi, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương". Rốt cuộc Thượng hoàng vẫn cử hành lễ an táng.(Trích "ÐạiViệt sử ký toàn thư" - QVII , Tr 56)Chọn ngày | Ðầu trangCách tính ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Bảng kê ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo theo lịch can chi từng tháng. Tháng âm lịch Ngày hoàng đạo (tốt) Ngày hắc đạo (xấu) Giêng, BảyHai, TámBa, ChínTư, MườiNăm, MộtSáu, Chạp Tý, Sửu, Tị, MùiDần, Mão, Mùi, DậuThìn, Tị, Dậu, HợiNgọ, Mùi, Sửu, DậuThân, Dậu, Sửu, MãoTuất, Hợi, Mão, Tị Ngọ, Mão, Hợi, DậuThân, Tị, Sửu, HợiTuất, Mùi, Sửu, HợiTý, Dậu, Tị, Mão,Dần, Hợi, Mùi, TịThìn, Sửu, Dậu, Mùi Ðối chiếu bảng trên thì biết :  Ngày hoàng đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngày tý, sửu, tị, mùi.  Ngày hắc đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngày ngọ, mão, hợi, dậu. Cách đổi ngày Dương Lịch ra ngày Can Chi. Ngày can chi theo chu kỳ 60, độc lập không lệ thuộc vào năm tháng âm lịch hay năm tháng can chi (Kể cả tháng nhuận). Tính ngày can chi chuyển đổi sang âm lịch rất phức tạp vì tháng âm lịch thiếu đủ từng năm khác nhau, ngược lại tính ngày can chi theo dương lịch đơn giản hơn. Cách tính ngày dương lịch ra ngày can chi: 1. Mỗi năm dương lịch có 365 ngày, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5 ngày lẻ.2. Năm nhuận có thêm 1 ngày 29/2 tức 366 ngày, thì cộng thêm 6 ngày lẻ.Nếu lấy ngày 1/3 là ngày khởi đầu thì các ngày sau đây trong mọi năm cùng can chi giống 1/3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết ngày 1/3 (hay một trong bảy ngày nói trên) là ngày gì, ta dễ dàng tính nhẩm những ngày bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngày nói trên).Nếu muốn tính những ngày 1/3 năm sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ 24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngày 29/2). Thí dụ: ngày 1/3 năm 1995 là ngày Tân Mão, từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngày Quí Tị, 27/2/1996 là ngày giáp Ngọ. (1996 có hàng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là năm nhuận có ngày 29/2). Ta biết 1/3/1996 là ngày Ðinh Dậu vậy 24/21997 cũng là Ðinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngày. Ta dễ dàng tính ra 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, theo tính nhẩm từ Ðinh đến Nhâm hay Dậu đến Dần là 5 ngày. (Xem bài so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bày năm nào nhuận dương lịch và nhuận âm lịch). Thí dụ: Theo cách tính trên ngày 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, ngày 26/12/1997 cũng là ngày Nhâm Dần, vậy ngày1/1/1998 sẽ là ngày Mậu Thân (sau đó 6 ngày)...
Gia Phả Họ Trương Văn Chúng -Trương Đình-Trương Bá
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Họ Trương Văn Chúng -Trương Đình-Trương Bá.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Họ Trương Văn Chúng -Trương Đình-Trương Bá
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.