GIA

PHẢ

TỘC

HỌ
BÙI
LÀNG
HÓI
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ

Thủy tổ của họ Bùi Làng Hói đang được nghiên cứu và cập nhật, đây là một việc làm rất khó và phức tạp vì các tài liệu nghiên cứu về các dòng tộc họ Bùi liên quan tới tộc họ Bùi Làng Hói là rất ít, rất mong nhận được sự giúp đỡ của quý vị gần xa.
Sau đây là những bài viết hoàn toàn chỉ có tính tham khảo, hầu quý vị:

Lịch sử hình thành và phát triển
Là một trong những dòng họ có lịch sử rất lâu đời tại Việt Nam. Theo một thông tin mới đây cho thấy, đã tìm thấy một bài vị biên chép về lịch sử của vua Lê Đại Hành đã ghi rằng: "vào năm 257 trước Công nguyên, nhà Thục xâm chiếm nước ta, có 4 dòng Họ gồm: Ngô tộc, Bùi tộc, Lê tộc, Trần tộc được vua Hùng (Duệ Vương) triệu tập 4 vị Đại Thần cùng 5000 binh mã đã đánh thắng trận đầu, giặc bị tiêu diệt máu chảy thành sông vang dội núi sông."
Ngoài ra còn có di tích phần mộ của 2 danh tướng thời Hai Bà Trưng là Bùi Thạch Đa và Bùi Thạc Đê ở Tam Nông, Phú Thọ cũng minh chứng cho lịch sử xa xưa của dòng họ.


Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng phả học đầu tiên của Việt Nam đã chính thức hoạt động từ 16/3 với trụ sở đặt tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Hà Nội). Theo kế hoạch, trong năm 2004, trung tâm sẽ dịch khảo đính, xuất bản gia phả họ Bùi (500 trang), dịch và giới thiệu 700 bản thần phả (500 trang). Năm 2005, trung tâm sẽ dịch và giới thiệu thần phả họ Tô (700 trang) và 700 bản thần phả (500 trang).
Văn bia Bùi Dương Lịch
________________________________________
"Một vật thể vốn đã trong, dù có lẫn với những vật cắn đục cũng không hề đổi chất".(1)
Trong số văn bia danh nhân Hà Tĩnh, có một bản văn bia của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch do Phó bảng Nguyễn Văn Siêu soạn lời. Bia dựng trước nhà thờ chi họ Bùi Thức, xã Tùng Aảnh, huyện Đức Thọ. Văn bia được lập từ bia gốc ấy).
Văn bia soạn năm Bính Dần, Tự Đức năm thứ 19 (1866) - 38 năm sau ngày Bùi Dương Lịch mất. Một thời người ta đã xếp Bùi Dương Lịch vào hạng người xu phụ, đổi dạ thay lòng. Trước bao lời đồn đại, chê trách, dường như không thấy một ai lên tiếng phản bác, biện hộ cho ông. Trong khi đó, nhiều tác phẩm của ông chưa kịp ra đời, tài năng, giá trị sáng tác đích thực của ông ít người biết đến. "Văn tịch chí" trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú) chưa ghi Nghệ An ký của ông, Đại Nam nhất thống chí - bộ địa chí - lịch sử chính thống triều Nguyễn, không đưa ông vào mục Nhân vật Nghệ Tĩnh, dù ông đã có học vị cao.
Dạy học và trước tác, hai mặt cống hiến lớn của Bùi Dương Lịch.
Về dạy học, đánh giá thành tựu này, Nguyễn Văn Siêu viết: "Ơở Châu Hoan nhân tài nối tiếp xuất hiện, cùng sánh vai với các vùng trong nước. Triều đại hưng thịnh như ngày nay, nếu không có công lao đóng góp của ông, ai là người tác thành cho lớp hậu tiến, để nước nhà sẵn có mà dùng? Kẻ sĩ nối tiếp thành đạt ở Châu Hoan này, không chỉ có tình nghĩa thân chá, mà phần lớn đã trở thành những bậc danh thần, tiếp bước rạng rỡ trên văn trường, sĩ bản".
Bùi Dương Lịch hiệu Tồn Trai, sinh năm 1757 (Cảnh Hưng thứ 18) tại quê cha, làng Yên Đồng, La Sơn (nay là xã Tùng Aảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh), mất năm 1828 (Minh Mạng thứ 9) tại quê mẹ, làng Đồng Môn, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Ông đỗ Hương cống năm 17 tuổi, đỗ Hoàng giáp năm 30 tuổi. Trong 71 năm cuộc đời, không kể những năm tuổi ấu thơ và tuổi học trò, tính từ năm 17 tuổi, thời gian làm việc được phân bố như sau: Hơn 1 năm dịch sách ở Viện Sùng Chính (1792 - 1793), 8 năm làm Đốc học Nghệ An và Phó đốc học trường Giám ở Huế (1805 - 1812), xin từ quan về dạy học năm ông 56 tuổi (1813). Nếu gọi ông là quan, ông đã thực sự làm quan ở nội điện (cung phụng, tự thừa, viên ngoại lang, là những chức quan nhỏ). Chưa chẵn 5 tháng, vua tôi đã phải dắt nhau chạy "loạn" (từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1787).
Vào những năm đầu, ông vừa dạy học vừa tập bài ở kinh kỳ. Phần lớn thời gian ông dạy ở quê. Khó tìm thấy bản kê danh sách "đồng môn", để giúp ta biết chính xác số lượng học trò và số trò thành đạt. Theo gia phả, học trò ông đông đến ngoài nghìn, trong số đó, trên 300 người, cao thấp khác nhau đều có đỗ đạt. Ngụy Khắc Thận, quê Nghi Xuân, đỗ cử nhân, Ngụy Khắc Tuần là học trò vừa là con rể ông, đỗ tiến sĩ, Bùi Thức Kiên, con trai ông, đỗ Hoàng giáp... Nhận định thành tựu về mặt này như trong văn bia, hẳn có căn cứ.
Là nhà mô phạm, ông rất coi trọng việc "tề gia", một trong những mục tiêu trọng yếu đầu tiên của Nho giáo. Ông chăm lo xây dựng nếp sống gia giáo trong gia đình mình: cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ... trên kính dưới nhường, thuận hòa, êm ấm. "Hương đảng mạc như xỉ" (Trong làng xóm không ai được kính trọng bằng đối với lớp người cao tuổi). Ông có 3 bà vợ, được sắp xếp thứ bậc theo lứa tuổi: bà hơn tuổi làm chị, kém tuổi làm em, không kể cưới sau cưới trước. Có 9 con trai, 7 con gái, định thứ tự anh em, chị em cũng theo lứa tuổi hơn kém, không kể con bà cả, bà hai... Cách sắp xếp ấy tạo cơ sở cho sự hòa thuận, sum họp gia đình. Đó cũng là một đổi mới trong hướng tiến bộ. Nguyễn Văn Siêu viết: "Chỉ cần quan sát ở nền nếp gia giáo với các mặt căn cơ "đường - cấu" trong gia đình này, ta có thể suy ngẫm và nhận định sức sáng tạo ở đây".
Về trước tác, nếu trong nghề dạy học, ông đã trở thành nhà sư phạm tài danh, có uy tín lớn, thì về mặt sáng tác, khảo cứu, ông đã vượt lên ngang tầm cao sáng tác đương thời. Tác giả văn bia đã khái quát thành tựu xuất sắc ấy trong 4 câu "minh" ngắn gọn, hàm súc: "Góp nhặt tuy mọn, phát việt đúng thời, hào quang tỏa sáng, hương sách thơm hoài".
Trước tác của ông bao gồm nhiều lĩnh vực: Về văn học có Ôốc lậu thoại thi văn, Bùi Tồn Trai trường tập biểu, giáo khoa có Bùi gia huấn hài, lịch sử có Lê Quý dật sử, địa chí có: Yên Hội thôn chí, Nghệ An phong thổ ký, Nghệ An chí và Nghệ An ký...
Là một học giả uyên bác, kiến thức của ông chỉ bó hẹp trong "ngũ kinh, tứ thư", từ chương, điển cố, mà đã mở rộng ra các mặt địa chí, lịch sử dân tộc, đất nước quê hương mình. Nghệ An ký là bộ sách đạt đến tầm cao của hướng viết ấy. Sách được biên soạn qua một quá trình sưu tập, khảo sát công phu, viết thể nghiệm từ Nghệ An phong thổ ký đến Nghệ An chí rồi nâng lên Nghệ An ký. Nếu cần nhắc đến nhược điểm của tập sách, trước hết phải nói, về mặt nào đó, tác giả đã quá thiên về khai thác văn học - lịch sử. Điều đó không thừa. Nhưng khi đã là tập sách địa chí thì các phần kinh tế, xã hội, nghề nghiệp, phong tục, v.v. là những phần trọng yếu không thể bỏ qua hoặc lướt nhanh. Nghệ An ký vì thế chưa phải đã hoàn hảo trong loại hình sách Địa chí. Sau Nghệ An ký, một hoạt sách địa chí lịch sử của nhiều tác giả tiếp nối ra đời. Nhờ đó, những tư liệu quý giá còn có được như ngày nay, là nhờ có các tập sách địa chí ấy.
Bùi Dương Lịch là người đã có công lớn đặt nền móng cho phương pháp biên soạn sách địa chí. Đó cũng là thành tựu và cống hiến nổi bật rất đáng được trân trọng của ông trong lĩnh vực này.
Gần đây, chúng tôi đã sưu tập, phiên dịch, biên soạn thành một tập thơ riêng: Thơ Bùi Dương Lịch. Tập thơ gồm có 52 bài (có thể chưa thu thập đủ), tạm chia làm 3 phần, thơ vịnh cảnh, thơ vịnh phong thổ và thơ tự sự, cảm tác.
Trong thơ, nếu có loại thơ "địa chí" thì thơ ông thuộc loại thơ ấy. Các nhà thơ từng viết: Tiêu Tương bát cảnh, Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch Động thôn vân, Ngọ Trà hứng... thì thơ ông là Nghi Xuân bát cảnh, Hồng Lĩnh hành, Thị Lang kiều, Thực Giang cán... Vì là thơ "minh họa", đó đây còn có một ít bài viết hơi vội vã, nhưng những gì đã ghi lại được, đều rất có giá. Tập thơ vì thế, vừa là tác phẩm văn học, vừa là tác phẩm địa chí - lịch sử, di sản văn hóa quê hương - đất nước quý giá vô cùng.
Trong tập thơ, vẫn còn một đôi tiếng thở dài, day dứt, chán ngán, cũng có những khi tức bực, chửi bới nặng lời. Nhưng toàn bộ tập thơ toát lên tất cả những gì là tình yêu thiên nhiên, quý mến và tự hào đối với quê hương - đất nước. Nghĩ về phong thổ xứ Nghệ, ông viết:
Thánh Chu bất cảm thần hoàng cầu
Tặc Phụ yên năng đoạt Nghĩa vương...
(Nghệ An phong thổ ký thi)
Vua Nhà Chu là bậc thánh, vẫn không dám bắt ép bậc cha chú (bộ tộc Việt Thường) thần phục mình, thì tên giặc Trương Phụ làm sao khuất phục nổi (khí tiết) của Nghĩa vương (Nguyễn Biểu).
Trung tâm Việt Thường thời đó dường như được xác định là vùng đất Nghệ Tĩnh. Ngự sử Nguyễn Biểu cũng quê ở vùng này.
Câu thơ viết hàm súc, đọc lướt qua, tưởng không có ý gì mới. Dừng lại ngẫm nghĩ, mới thấy ra nhiều điều tinh tế, sắc sảo đến kinh người!
Từ bộ sách Nghệ An ký cùng những tác phẩm khác của mình, đã đưa ông lên tầm cao các nhà trước tác xuất sắc đương thời.
Từ văn bia này, sự nghiệp của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch "tỏa sáng hào quan". Qua văn bia này, cái nhìn và văn tài của Phó bảng Nguyễn Văn Siêu quả là thần bút................Tiếp theo là một bài viết liên quan tới một phụ nữ họ Bùi tài ba trong lịch sử :

Phát hiện quan trọng về gốm cổ Chu Đậu: Đã tìm thấy tác giả của chiếc bình gốm hoa lam tàng trữ tại Bảo tàng I-xtan-bun Ngày 15 tháng 07 năm 2006
Từ lâu thế giới đã biết đến gốm cổ Việt Nam qua nhiều tác phẩm đặc sắc được tàng trữ tại nhiều bảo tàng lớn thế giới, trong đó có một dòng gốm mỹ nghệ đặc sắc của Việt Nam, đó là gốm Chu Đậu; đặc biệt là chiếc bình gốm hoa lam hiện vẫn được trưng bày tại bảo tàng Tokapi Saray, I-xtan-bun, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau nhiều chục năm nghiên cứu, kết quả mới nhất đã khẳng định người vẽ chiếc bình gốm dòng Chu Đậu, Hải Dương đặc sắc kia là bà Bùi Thị Hý (1420-1499).
Sự kiện bắt đầu từ Ban Thông sử và Bảo tàng Hải Hưng khai quật các lò gốm cổ ở khu vực này lần đầu vào ngày 23-4-1986. Việc phát hiện trung tâm gốm mỹ nghệ Chu Đậu đã làm nhiều nhà khảo cổ học trong và ngoài nước ngạc nhiên và từng bước phải điều chỉnh lại nhận thức của mình.
Những người quá thận trọng dẫn đến tự ty cũng như những vị có tư tưởng nước lớn thì cho rằng Việt Nam ở thế kỷ XV khó có thể sản xuất được những mặt hàng mỹ nghệ cao cấp như vậy, nếu có thì rất có thể do nghệ nhân nước ngoài sản xuất tại Việt Nam, nhưng hầu hết các nhà khoa học trong và ngoài nước đã chúc mừng và cùng tham gia nghiên cứu.
Chúng ta biết rằng, từ thời Lý-Trần, ông cha ta đã tạo tác nên những đồ gốm tuyệt vời thì thời Lê sơ phải tiến bộ hơn. Việc các dân tộc học tập lẫn nhau về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác để phát triển là việc tất yếu của cả nhân loại xưa cũng như nay.
Trước khi phát hiện di tích gốm Chu Đậu thì trong kho nhiều bảo tàng trong nước, trong đó có Bảo tàng Hải Hưng và nhiều bảo tàng lớn trên thế giới từ châu Á sang châu Âu, từ châu Phi sang châu Mỹ đã lưu trữ những đồ gốm đặc biệt này, nhưng chỉ ghi chung là gốm Việt Nam, chưa một bảo tàng nào xác định được địa chỉ nơi sản xuất, nếu có lại gán cho Bát Tràng một cách khiên cưỡng, thực tế đến khi đó ở Bát Tràng chưa tiến hành một cuộc khai quật khảo cổ học nào.
Sau khi phát hiện di tích sản xuất, những sưu tập gốm này đã được nâng cao giá trị, nghĩa là chúng đã có nguồn gốc đích thực tại Chu Đậu (Việt Nam). Đặc biệt là sau khi khai quật con tàu đắm ở biển Cù Lao Chàm (Quảng Nam) thì diện mạo gốm Chu Đậu càng rõ hơn.
Tuy nhiên vẫn có những nhà khoa học băn khoăn rằng, những hiện vật vẽ công bút vô cùng tinh tế đó có phải thợ Việt Nam thực hiện không? Bình gốm hoa lam lưu ở Bảo tàng quốc gia Tokapi Saray tại I-xtan-bun của Thổ Nhĩ Kỳ, vai có 13 chữ Hán: Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút. Cần lưu ý chữ Thái ở đây không có dấu chấm dễ đọc nhầm thành chữ Đại. 13 chữ trên có thể dịch là: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, người thợ (gốm) là Bùi Thị Hý vẽ (cũng có thể hiểu là người sáng tạo bình gốm đó), nhưng một số học giả lại dịch là: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, có một ông thợ gốm họ Bùi vẽ chơi! Mà không tin rằng đó là tác phẩm của một phụ nữ. Ông họ Bùi này vẽ chơi mà đẹp vậy thì không biết vẽ thật đẹp đến mức nào! Rất không may cho tác giả bình gốm này lại tên là Hý, nếu tên là Huyền chẳng hạn thì không còn phải thảo luận, nhưng khoa học cứ phải như vậy mới đạt đến chân lý.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng, rất có thể có một bà Bùi Thị Hý sáng tạo chiếc bình đó, vì trên đồ gốm thời Mạc và Lê Trung hưng không ít phụ nữ được ghi tên trên đồ gốm với tư cách là tác giả như: Bà Nguyễn Thị Đỉnh-vợ nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở Hùng Thắng (Nam Sách), bà Bùi Thị Đỗ, Hoàng Thị Vệ ở Bát Tràng…
Bình gốm có niên đại, địa điểm, tác giả sản xuất là rất hiếm ở Việt Nam, đặc biệt là vô cùng hiếm ở thế kỷ XV. Nếu như tác giả Bùi Thị Hý được giải mã thì chúng ta giải quyết được căn bản lý lịch của bình gốm ở I-xtan-bun và chủ nhân gốm Chu Đậu từ thế kỷ XV.
Chúng tôi hy vọng một ngày nào đó tìm ra lý lịch bà Bùi Thị Hý, như đã tìm ra lý lịch của nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở thế kỷ XVI, nhưng hy vọng trong trường hợp này quá mong manh, chẳng khác nào mò kim đáy bể. Gần đây, tôi có viết lại quá trình phát hiện gốm Chu Đậu để hiệu đính những bài báo viết không đúng sự thực về sự kiện này và có giới thiệu một lần nữa bình gốm lưu ở bảo tàng quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, kiên trì với nhận định đó là tác phẩm của một phụ nữ tên là Bùi Thị Hý.
Vấn đề tưởng như vô vọng, thì ngày 29-5-2006, anh Bùi Đức Lợi và Bùi Xuân Nhạn mang đến cho tôi xem hai trang gia phả viết trên giấy bản đã ố vàng của dòng họ và một số di vật gốm như: con kê 4 chân liền, con kê hình trụ, ắc bàn xoay, phần cổ của một bình tỳ bà hoa lam sưu tầm ở di tích lò tại làng. Chỉ cần từng ấy thứ cũng đủ biết nó là di tích một lò gốm thời Lê sơ.
Điều đặc biệt là, sau khi đọc gia phả nguyên bản bằng chữ Hán, do lý trưởng Bùi Đức Nhuận, hậu duệ 13 đời, sao y bản chính của họ Bùi, làng Quang Ánh vào năm Bảo Đại Nhâm Thân, tức năm 1932, chúng tôi đã hiểu những nét căn bản về bà Bùi Thị Hý, tác giả chiếc bình hoa lam, sản xuất năm Thái Hòa thứ 8 (1450).
Nguyên nhân là, nhân đọc bài báo về quá trình phát hiện gốm Chu Đậu, đăng trên tạp chí Khoa học và ứng dụng Hải Dương, cách đây chừng một tháng, anh Bùi Đức Lợi và Bùi Xuân Nhạn đã nhận ra rằng người làm chiếc bình hoa lam ở thế kỷ XV rất có thể là bà cô tổ 15 đời của mình, gia phả có ghi bà là người có tài làm đồ gốm. Các anh đã mang gia phả đến nhờ chúng tôi xác minh.
Chúng tôi đã điền dã tại thôn Quang Ánh, dân gian gọi là Quang Anh, nay đã đổi thành Quang Tiền thuộc xã Đông Quang, huyện Gia Lộc. Tại đây, chúng tôi được đọc cuốn gia phả viết trên vải của họ Bùi vào năm Minh Mệnh Nhâm Thìn (1832), tư liệu trùng hợp với cuốn viết trên giấy bản. Bên chùa Viên Quang, ở phía bắc làng, gần sông Định Đào, có dấu vết của lò gốm. Qua nghiên cứu thấy rằng, cuốn gia phả viết trên giấy bản năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932) là cuốn sao bản viết năm Minh Mệnh Nhâm Thìn (1832), nghĩa là sau tròn 100 năm.
Dưới đây chúng tôi xin tóm tắt nội dung gia phả họ Bùi ở Quang Ánh và tiểu sử bà Bùi Thị Hý qua 2 cuốn gia phả nói trên:
Thủy tổ là cụ Bùi Đình Nghĩa, con tướng quân Bùi Quốc (một trong 18 vị dự hội thề Lũng Nhai năm 1418), sinh năm Xương Phù 11 (1387), nguyên quán làng Cống Khê, huyện Chương Đức, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Cống Thượng, xã Hồng Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây). Năm Hưng Khánh thứ nhất (1407), để tránh giặc Minh, cụ Nghĩa di cư về trang Quang Ánh (nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Tại đây cụ sinh 2 người con. Con thứ nhất là Bùi Thị Hý, sinh năm Canh Tý (1420); con thứ hai là Bùi Đình Khởi, sinh năm Quý Mão (1423). Cụ Nghĩa là người có chí lớn, dũng cảm và mưu lược nổi tiếng đương thời, tham gia nghĩa quân Lam Sơn, hy sinh trong một trận hỗn chiến tại thành Đông Quan, sau chiến thắng giặc Minh, được Lê Lợi ban 55 mẫu lộc điền. Cụ trở thành thủy tổ của dòng họ Bùi trang Quang Ánh.
Người con gái trưởng của cụ là một phụ nữ tài năng, văn hay, chữ tốt, lại có biệt tài về họa. Bà đã giả trai thi đến tam trường, khi phát giác bị đuổi khỏi trường thi. Bà lấy ông Đặng Sĩ, một đại gia về đồ gốm ở làng Chu Nhẫm, tức Chu Đậu, huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách. Bà là thợ có biệt tài làm bình gốm. Năm Thái Hòa thứ 10 (1452), bà cùng chồng về Quang Ánh giúp em trai dựng lò gốm, ở phía bắc trang, nơi gần sông Định Hòa, giao thương với Chu Đậu, làm đặc sản gốm sứ cống Hoàng triều và xuất cho thương nhân các nước như Bắc Quốc, Nhật Quốc, và phương Tây. Từ đó họ Bùi Quang Ánh giàu mạnh không ngừng qua từng năm. Bà Hý không có con nên cuối đời về quê cha và mất tại đây vào ngày 12 tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499) thọ 80 tuổi, Đến khi đất nước đại loạn (chiến tranh Trịnh-Mạc cuối thế kỷ XVI), làng mạc bị tàn phá, con cháu thất tán, không sản xuất được, phải cải họ đến 3-4 đời.
Vào thời kỳ đại loạn (cuối thế kỷ XVI), Trịnh Tùng hủy diệt vùng Nam Sách từ đầu năm 1593 khi tấn công nhà Mạc, từ đó nghề vinh của dòng họ này thất truyền. Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng: "Nhâm Thìn, năm Quang Hưng thứ 15, tháng 12, ngày 3-1-1593... Bấy giờ Phủ tiết chế chi quân cả phá bọn Mạc Kính Chỉ ở xã Tân Mỹ, huyện Thanh Hà, chém được đầu giặc và 50 chiếc thuyền, cùng ngựa và khí giới nhiều không kể xiết. Các phủ Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn bị tiêu hủy gần hết".
Những sự kiện trên hoàn toàn phù hợp với lịch sử và những gì đã nghiên cứu về gốm Chu Đậu. Điều đương nhiên là bình gốm hoa lam, cao 54cm, sản xuất năm Thái Hòa thứ tám (1450) lưu ở Thổ Nhĩ Kỳ là tác phẩm của bà, hơn thế còn là bút tích của nghệ nhân ở tuổi 31. Từ tư liệu này, theo hiểu biết hiện nay, có thể gọi cụ Đặng Sĩ và Bùi Thị Hý là những vị tổ của làng gốm mỹ nghệ Chu Đậu.
Sự kiện này đã khẳng định gốm Chu Đậu trước hết là do người địa phương sản xuất, trong đó có vai trò của phụ nữ, mà điển hình là Bùi Thị Hý. Từ nay lịch sử Việt Nam có thêm một phụ nữ tài năng xuất chúng, từng giả trai đi thi đến tam trường và là một nghệ nhân đồ gốm xuất sắc của Việt Nam ở thế kỷ XV. Vậy ở cuối thế kỷ XVI, có một bà Nguyễn Thị Duệ giả trai đi thi tiến sĩ ở Cao Bằng là điều không có gì lạ. Gia phả này còn cung cấp một thông tin về tướng quân Bùi Đình Nghĩa, người chiến đấu dũng cảm và hy sinh tại thành Đông Quan.
Trên đây là một phát hiện quan trọng không chỉ về gốm Chu Đậu mà còn của lịch sử gốm sứ Việt Nam và những vấn đề có liên quan của lịch sử dân tộc, trong đó có thủ công nghiệp và ngoại thương ở thế kỷ XV-XVI. Tư liệu này trùng hợp với kết quả điền dã và những gì chúng ta đã biết về trung tâm gốm mỹ nghệ đặc biệt này. Về văn bản học cũng khá minh xác, vấn đề còn lại là cần nghiên cứu kỹ hơn, kể cả khai quật để phát hiện những tư liệu có liên quan, đồng thời đảm bảo sự chân thực và phong phú của lịch sử một dòng gốm đẹp của Việt Nam cũng như của thế giới ở thế kỷ XV-XVI. Hy vọng sẽ có những tư liệu có giá trị được phát hiện xung quanh sự kiện này.
TĂNG BÁ HOÀNH (Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương)...............và một câu chuyện về dòng họ Bùi ở Bình Định:

Ông nghè Vân Sơn với nho sĩ họ Bùi ở Phước Thắng15:30', 21/11/ 2005 (GMT+7)
Nhà giáo Lê Tự Hiển, cán bộ giảng dạy khoa Ngữ Văn trường Đại học Quy Nhơn thời còn là sinh viên đã quan tâm sưu tầm sáng tác thơ văn của các nho sĩ họ Bùi ở thôn Lạc Điền, xã Phước Thắng, huyện Tuy Phước vốn là quê ngoại của ông.
Những tư liệu ông sưu tầm được cho ta biết mối quan hệ tri âm tri kỷ giữa ông nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì với các nho sĩ họ Bùi khi phong trào Cần Vương ở Bình Định dưới ngọn cờ lãnh đạo của cụ cử Mai Xuân Thưởng thất bại, quê hương lâm vào cảnh nô lệ. Giấc mộng Cần Vương tan thành mây khói theo pháo hạm La Cô-mét-tờ (La Comète) đưa vua Hàm Nghi vào Sài Gòn để lên tàu "Biên Hòa" đi an trí tại An -giê (Alger)(1). Tiếp đến phong trào Đông Du mà Tăng Bạt Hổ - người con ưu tú của Bình Định đã cùng phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mở đường sang Nhật rơi vào vòng bế tắc, Quang phục hội khởi nghĩa thất bại, hàng vạn đồng bào biểu tình bao vây thành Bình Định yêu cầu duy tân, vận động cắt tóc ngắn, chống bắt phu, đòi giảm thuế bị tàn sát đẫm máu.
Mặc dầu biết sách thánh hiền đã nhạt màu trong tìm đường cứu nước cứu dân nhưng chí sĩ Nguyễn Trọng Trì cũng như nhiều nhà nho ở Bình Định không cam tâm làm tay sai cho chính phủ bảo hộ, không cộng tác với quan lại Nam triều bán nước cầu vinh, lui về với tổ ấm gia đình, với xóm làng, tìm niềm an ủi trong giao du với bạn bè, trong thú điền viên để giữ lấy tâm hồn cao khiết của nho gia.
Tiền nhân thuở trước mỗi khi khai phá được một vùng đất mới thường chọn những mỹ từ có ý nghĩa đặt tên cho thôn ấp để gửi gắm vào đó cả niềm tin và hy vọng về cuộc sống phồn vinh cho con cháu mai sau. Cách đây hơn hai thế kỷ, họ Bùi là dòng họ đầu tiên di cư từ Bắc vào khai khẩn vùng xóm Trung, ấp Lạc Điền, tổng Thiều Quang, phủ Tuy Phước. Tiếp sau là các họ Đoàn, Đào, Nguyễn. Cả bốn dòng họ này đã chung sức đắp đê ngăn nước mặn, dọn sú vẹt, đào kênh mương dẫn nước ngọt về thuần hóa vùng đất ngập mặn, sình lầy, dựng nhà cửa, lập vườn, vỡ ruộng để hình thành ấp Lạc Điền - ấp của những cánh đồng vui.
Trong dân gian còn lưu giữ một truyền thuyết đẹp về thủy tổ họ Bùi như một biểu hiện dũng mãnh của những người mang gươm đi mở nước tới vùng đất này. Chuyện kể rằng vị tiền hiền này có sức mạnh phi thường. Một hôm ra đồng thăm ruộng, để giúp người nhà buộc trâu cày, ông đã nắm đuôi trâu ghì lại. Nào ngờ, con trâu hung hãn dứt chạy đứt đuôi mà ông vẫn đứng yên nắm đuôi trâu bình thản cười. Là người hào hiệp vừa thượng võ vừa trọng văn, ông chăm lo vun đắp đạo lý làm người theo mẫu mực nhà nho cho đời sau nên con cháu ông giữ gìn nếp nhà thi lễ trải qua nhiều thế hệ.
Cụ Bùi Tình, hậu duệ của ông là một nhà nho nhân hậu, sống giữa thời nhiễu nhương mà vẫn giữ được phẩm chất thanh cao. Cụ đã cùng cụ bà là Trần Thị Trị nuôi dạy con cháu thành đạt, làm cho gia đình nổi tiếng đạo đức đương thời. Cụ nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì là bạn vong niên của cụ Bùi Tình, cảm phục gia phong nho sĩ họ Bùi nên thường tới chơi nhà và đã tặng một bài phú dài, mở đầu có bốn câu thơ chữ Hán:
Tuy Phước danh gia bất nhứt gia
Gia danh phước hậu thị thùy gia
Danh gia phước hậu hữu minh chứng
Phụ mẫu cư tồn huynh đệ đa
Tạm dịch:
Tuy Phước danh gia chẳng một nhà
Nhà ai phước hậu ấy danh gia
Tiếng nhà phước hậu có minh chứng
Đông đủ anh em còn mẹ cha (2)
Cụ Nguyễn Trọng Trì không chỉ ca ngợi nền phúc hậu của danh gia họ Bùi mà còn cho đây là truyền thống văn hóa gia đình của cả phủ Tuy Phước thời bấy giờ.
Về sau, cụ tú kép Ngô Xuân Thọ, thân phụ nhà thơ Xuân Diệu vào Gò Bồi, biết tiếng gia đình đã hết lời ca ngợi bà Trị là bậc mẫu nghi, tần tảo, đảm đương, cùng chồng nuôi dạy con cháu nên danh giá.
Con cụ Bùi Tình là Bùi Thứu có tiếng hay chữ, bút hiệu là Tử Hồ đã nhiều phen lều chõng tới trường thi. Tuy đường khoa bảng chẳng được hanh thông nhưng ông là nhà nho đức độ, có lòng yêu nước thương dân mà không gặp thời, đành gửi gắm hy vọng vào thế hệ trẻ mai sau. Cho nên ông đã xuất tiền của cất một ngôi trường tại Điền Trung để dạy chữ Quốc ngữ cho con em trong làng. Việc làm này thể hiện tư tưởng đổi mới của nho gia thời bấy giờ. Nhằm vỗ về nho sĩ, chính phủ Nam triều tặng phẩm hàm cho ông. Còn cụ Nguyễn Trọng Trì hiểu thấu tâm can bậc hậu sinh mới tặng ông bài thơ:
Trúc tổ âm nung trúc doãn sanh,
Gia chi bửu giã quốc chi trinh.
Đường đàn đồ hiến khai văn mịch,
Võ lộ ân trù biểu nghĩa danh.
Cẩm thái hồng sanh Ban thái diệu,
Đào chi hương độ lý chi vinh
Phi tràng nguyệt hạ đàm kinh tế
Bùi thị phong truyền Nại hải thanh
Tạm dịch:
Tre già bóng cả có măng xanh
Cái báu của nhà nước đăng vinh
Trường dạy quốc văn nêu tiếng nghĩa
Ơn nhuần mưa móc rạng thơm danh
Gấm lồng áo lão màu thêm đỏ
Hương nức cành đào, lý tốt xanh
Nâng chén dưới trăng bàn thế sự
Họ Bùi biển Nại gió đưa thanh
Cái "kinh tế" - cái thế sự mà các nhà nho yếm thế thời bấy giờ luận bàn bên chén rượu giải buồn rồi cũng chỉ đi đến mong muốn: dầu trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ lấy đạo đức phẩm hạnh nhà nho như trong câu đối cụ Nguyễn Trọng Trì viết tặng ông Đoàn Quýnh con rể cụ Bùi Tình:
Phú nghĩa trung vô giao chiến địa
Hành tàng thượng hữu thái hòa thiên
Tạm dịch:
Giàu sang đại nghĩa không tranh cạnh
Lui tới khoan hòa có trí nhân
Tử Hồ vốn tính khí ngang tàng, nhiều lúc muốn mượn chén rượu hay thú nước mây để nguôi nỗi buồn nhớ nước, để khuây hận thù quân cướp nước nhưng nào có được. Khi tỉnh lại mới "buồn cho non nước cũ", mới thấy mình cô đơn giữa cảnh đời nô lệ. Tâm sự u uất này đã được ông gửi gắm vào bài thơ Say:
Say danh say lợi mặc ai say
Thơ rượu ta say suốt cả ngày
Tỉnh lại buồn cho non nước cũ
Say rồi quên hết hận thù nay
Dù ai mê mẩn mùi chung đỉnh
Mặc tớ vui say thú nước mây
Tri kỷ làng say đà mấy kẻ?
Cười đời một tiếng cũng vui thay!
Không như những kẻ say danh, say lợi, mê mẩn mùi chung đỉnh nên phải ôm chân thực dân Pháp, Tử Hồ say rượu, say thơ, say thú nước mây để xa lánh cảnh đời ô nhục. Cho nên tri kỷ với ông "đà mấy kẻ", và cuộc đời đối với ông chỉ "một tiếng (Say) cũng vui thay!". Đây là cái say vừa chua xót vừa tự mỉa mai của những nhà nho phẫn chí vì bất lực trước thời cuộc.
Tiếp nối gia phong, cụ Bùi Di - em cụ Bùi Thứu, có bút hiệu là Hòa Trai, cũng là một nhà nho dày công nghiên bút nhưng lận đận khoa trường, nên đành về lại nghề nông, mở lớp dạy học trò. Cụ có soạn bộ Nông thi tiện lãm, một quyển bằng Hán văn, một quyển bằng Việt văn để dạy nghề nông cho con cháu và dân làng. Quyển Việt văn viết bằng thể lục bát rất dài, đọc để nhớ nên dễ lưu truyền. Có bốn câu đầu sách thật dân dã:
Nhà nông gặp lúc thảnh thơi
Chép làm gia học ít lời dở quê
Xin ai nghe thấy đừng chê
Dân ta đa số trọng về nghề nông
Ông còn để lại một bài thơ nôm Đường luật Khuyên con cháu làm ruộng. Bài thơ là lời nhắn nhủ thế hệ sau giữ lấy nếp nhà "dòng chánh học", giữ lấy đạo lý làm người trong nghề nông. Bài thơ còn thể hiện tinh thần yêu thương cộng đồng của kẻ sĩ thấu hiểu dân tình. Làm nông cho phú túc không chỉ vun đắp hạnh phúc gia đình mà còn trợ giúp anh em tông tộc, bà con thôn ấp, và rộng hơn là cứu dân giúp nước năm gặp cảnh cơ hàn:
Cuốc cày con hãy lực ân cần
Bờ góc đừng tham lấn tấc phân
Phải biết giống nào nghi thủy thổ
Chớ nài công khó bạt mao vân (3)
Trời cho phú túc nuôi làng họ
Năm gặp cơ hoang giúp nước dân
Khỏi phụ nhà ta dòng chánh học
Tiếng đời truyền để đến ngàn xuân
Không thể làm ngơ trước công đức của ông đối với dân làng, chính phủ Nam triều tặng phẩm hàm cho ông. Là người thích ngâm vịnh, nhân dịp này ông viết bài thơ Được thưởng hàn lâm phỏng theo lối vĩ tam thanh (4):
Bất hủ dám đâu trẻ bạn bè
Còn e miệng thế nhé nhè nhe
Chín tầng ân chiếu nghe oi ỏi
Một bộ nông thơ tốt vẻ ve
Văn học phải như ờ â ă
Công danh đâu được khỏe phè phe
Truyền nhà một chút công nho nhỏ
Con cháu khuyên theo hẻ hẹ hè
Ông còn làm nhiều liễn đối hay để tặng bạn bè và người quen thân trong làng họ.
Từ vị thủy tổ đến cụ Bùi Thứu, Bùi Di, trải qua nhiều đời, họ Bùi luôn chăm lo vun đắp gia phong, giữ gìn phẩm hạnh, con cháu nối tiếp nhau thành đạt, có tiếng hiếu nghĩa trong vùng. Quả đúng như ông nghè Vân Sơn từng ca ngợi: "Bùi thị phong truyền Nại hải thanh".
Dân tộc ta đã phải trải qua một nghìn năm nô lệ phong kiến phương Bắc nhưng không bị Hán hóa, mà vẫn giữ được cốt lõi bản sắc văn hóa dân tộc, chính là nhờ nhân dân ta đấu tranh không ngừng để cố giữ lấy nếp sống văn hóa làng xã. Thời Pháp thuộc cũng vậy. Mặc dầu văn hóa Pháp tràn ngập khắp thành thị từ Nam chí Bắc, nhưng ở thôn làng, sau lũy tre xanh những thuần phong mỹ tục của cha ông để lại vẫn được giữ gìn và đổi mới theo phong trào duy tân do các chí sĩ yêu nước chống Pháp đề xướng thời bấy giờ.
Tuy không xả thân tìm đường cứu nước hay cầm súng cầm gươm đối mặt với kẻ thù, nhưng các nho sĩ họ Bùi đã mang tài đức của mình vun đắp dòng họ, xây dựng xóm làng, mở mang dân trí, giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp cho quê hương. Nho sĩ họ Bùi quả xứng đáng là những nhà văn hóa làng thuở trước.
Chính vì thế, khi cụ Bùi Thứu cất trường, mở lớp truyền bá chữ quốc ngữ, cụ nghè Vân Sơn đã làm hộ dân thôn Lạc Điền đôi câu đối để chúc tụng:
Nghĩa tâm chức tác giang sơn cẩm
Hiếu tửu nung thêm võ lộ hương
Tạm dịch:
Lòng nghĩa rạng ngời non sông gấm vóc
Rượu đào hiếu thảo mưa móc thơm nồng
Giữa cảnh đời nô lệ, cụ nghè Vân Sơn cũng như nho sĩ họ Bùi, vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ nước thương dân. Họ là những nhà nho thất thế cùng tâm trạng, cùng cảnh ngộ, thích ngâm vịnh tìm đến với nhau để hòa điệu tâm hồn, động viên nhau giữ lấy đạo lý truyền thống tốt đẹp của cha ông và phẩm chất cao khiết của nhà nho, trải tấm lòng son dưới ánh trăng bên đầm Thị Nại với nước non.
• Nguyễn Xuân Nhân.

Sau đây là một số bài viết sưu tầm được viết và giới thiệu về quê hương Hà Tĩnh:

BÍ MẬT ĐẰNG SAU NHỮNG THÀNH ĐẠT CỦA CON NGƯỜI TẠI MỘT VÙNG QUÊ HÀ TĨNH .




Trong chuyến đi điền dã của mình , dienbatn đã phát hiện và khảo sát một vùng quê hẻo lánh nhưng đã là khởi nguồn của nhiều vị Vua , Công hầu , Khanh tướng , các vị Đại Thần thuộc loại Tứ trụ Triều đình. Vùng này là một tập hợp nhiều Long mạch lớn đã - đang và sẽ kết phát lên nhiều vị Hoàng đế , nguyên thủ Quốc gia. Đây là một tập hợp những Long mạch điển hình của Việt nam , hiện nay Khí vận còn đang rất mạnh. Nơi mà dienbatn muốn nói đến chính là vùng quê xung quanh xã LINH CẢM - HUYÊN ĐỨC THỌ - TỈNH HÀ TĨNH.
CỔNG LÀNG ĐỒNG THÁI .

1/ MÔ TẢ KHU VỰC :

Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh cách Thủ đô Hà nội khoảng hơn 300 Km về phía Tây Nam. Nếu bạn xuất phát từ Hà nội bằng xe hơi thì sau khoảng 5 tiếng là tới. Qua Thành phố Vinh và đi qua sông Lam , đi thêm chừng 30 Km rẽ phải là đến Đức thọ. Đi tiếp khoảng 10 Km nữa là tới Bãi Vọt và Thị trấn Đức thọ. Thị trấn Đức thọ mới được xây dựng thời gian gần đây. Tại ngã tư trước khi vào Thị trấn đức thọ , có một con đường từ Hà nội lên và đi thẳng lên cửa khẩu Cầu Treo sang nước bạn Lào. Một đường vào Thị trấn và một con đường mới làm rất đẹp dẫn vào Linh cảm. Con đường này có từ khi mộ của Tổng Bí thư Trần phú được khánh thành. Huyện Đức thọ - Tỉnh Hà tĩnh là một vùng đồng bằng rộng lớn , tuy nhiên dân cư trong khu vực này còn thưa thớt. Toàn bộ Huyện Đức thọ được ôm bởi dãy Thiên Nhọn , có xuất phát từ dãy Trường sơn và con sông La hiền hòa hình vòng cung bao bọc.
Con sông La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa Huyệt . Sông La và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn khu vực . Đây là một Long mạch rất lớn , bắt đầu từ dãy Trường sơn , có chi Long chạy về khu vực Đức thọ - Hà tĩnh ( Trong đó có đỉnh 30 ) . Con sông La bắt đầu từ hai con sông Ngàn Sâu , ngàn Phố từ dãy Trường Sơn , gặp nhau tại Linh cảm tại bến Tùng xoa ( Còn gọi là bến Tam xoa ) , chạy thêm chừng 20 Km nữa lại đổ vào sông Lam tại chợ Tràng ( Gần chợ Củi - Nơi có Đền thờ ông Hoàng Mười ) . Dãy Thiên lĩnh tại khu vực Bãi vọt gọi là dãy Hồng lĩnh có 99 ngọn núi . Dãy Thiên lĩnh nằm tại phía Bắc của khu vực . Sở dĩ gọi là Thiên Lĩnh hay Thiên nhọn vì cả dãy núi này có tới 999 ngọn núi , xuất phát từ Lào , Trường sơn , chạy qua Ngàn sâu , Ngàn Phố , kéo tới khu vực bến Tam xoa - Linh cảm . Tại khu vực này là một vùng có Long khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Nơi đây đặc biệt Phụ nữ rất đẹp và có tài , từng giúp cho các đức ông chồng thành đạt , thăng tiến trên đường công danh. Phụ nữ ở đây đa phần mình dây , da trắng , tóc dài , nói tiếng rất dễ nghe , dễ cảm. Ở đây có câu : " Vợ ngoan lo Quan cho chồng ". Đằng sau sự thành công của các Danh nhân xuất phát từ đất này , đều có công không nhỏ của những người Phụ nữ Đức Thọ.
Trong các làng thuộc Huyện Đức Thọ - Hà tĩnh , làng Đồng Thái là làng được xem là có nhiều người thành đạt nhất từ xưa cho đến nay. Làng này có khoảng 200 hộ dân , với khoảng 600 khẩu. Trong làng nổi lên nhiều dòng họ đã cung cấp nhiều bậc vĩ nhân cho đất ngước như : Họ Phan ( Có PHAN ĐÌNH PHÙNG , PHAN TRỌNG TUỆ , PHAN ANH , PHAN MỸ... ) ; Họ Mai ( MAI THÚC LOAN ) , Họ Hoàng ( HOÀNG CAO KHẢI.. ); Họ Bùi ( BÙI DƯƠNG LỊCH ) , họ Trần ( TRẦN PHÚ...); Họ Kiều ( KIỀU CÔNG TIỄN ) ; Họ Đinh ( ĐINH LIỆT , ĐINH LỄ ) , Họ Lê ( LÊ BÔI ) ; Họ Nguyễn ( NGUYỄN BIỂU ) ......
Xã Tùng ảnh ( là hình bóng của cây thông in trên núi ) , trước kia là làng YÊN VIỆT ; sau đổi thành Châu Phong , rồi Đức Phong và cuối cùng là Tùng Ảnh. Từ thời xa xưa cho đến ngày nay , xã Tùng ảnh luôn có người học giỏi , thi đậu cao , rất nhiều người có bằng cấp Tiến sĩ. Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ , trước kia là Phủ Đức Thọ - Tổng Việt yên.
Làng này tuy ở một vùng quê hẻo lánh song rất trù phú , đường là được lát bê tông , nhà cửa khang trang , đẹp đẽ.
Bên cạnh làng Đồng Thái có một làng nhỏ tục tên gọi là làng Nồi. Địa hình của làng này như một cái nồi úp trên mặt nước vì bốn phía là sông và cánh đồng . Làng này từ xưa đã truyền tụng câu : " Đầu làng là Tụng , Giữa làng là Họa , cuối làng là bần ". Bởi vì những hộ của phần đầu làng có truyền thống kiện tụng lâu dài , giữa làng thì xẩy ra rất nhiều tai họa quái gở , cuối làng vì cờ bạc nên nghèo mạt rệp. Hai xóm Yên hội Đông và Yên Hội Tây chuyên sống bằng nghề cờ bạc.
Tuy nhiên , rất ít người , kể cả người của làng Đồng Thái biết rằng : Những dòng họ của Đồng Thái phát mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy không phải do đất Đồng Thái.

Jun 10 2006, 04:12 AM
Trong các làng thuộc Huyện Đức Thọ - Hà tĩnh , làng Đồng Thái là làng được xem là có nhiều người thành đạt nhất từ xưa cho đến nay. Làng này có khoảng 200 hộ dân , với khoảng 600 khẩu. Trong làng nổi lên nhiều dòng họ đã cung cấp nhiều bậc vĩ nhân cho đất ngước như : Họ Phan ( Có PHAN ĐÌNH PHÙNG , PHAN TRỌNG TUỆ , PHAN ANH , PHAN MỸ... ) ; Họ Mai ( MAI THÚC LOAN ) , Họ Hoàng ( HOÀNG CAO KHẢI.. ); Họ Bùi ( BÙI DƯƠNG LỊCH ) , họ Trần ( TRẦN PHÚ...); Họ Kiều ( KIỀU CÔNG TIỄN ) ; Họ Đinh ( ĐINH LIỆT , ĐINH LỄ ) , Họ Lê ( LÊ BÔI ) ; Họ Nguyễn ( NGUYỄN BIỂU ) ......
Xã Tùng ảnh ( là hình bóng của cây thông in trên núi ) , trước kia là làng YÊN VIỆT ; sau đổi thành Châu Phong , rồi Đức Phong và cuối cùng là Tùng Ảnh. Từ thời xa xưa cho đến ngày nay , xã Tùng ảnh luôn có người học giỏi , thi đậu cao , rất nhiều người có bằng cấp Tiến sĩ. Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ , trước kia là Phủ Đức Thọ - Tổng Việt yên.
Làng này tuy ở một vùng quê hẻo lánh song rất trù phú , đường là được lát bê tông , nhà cửa khang trang , đẹp đẽ.
Bên cạnh làng Đồng Thái có một làng nhỏ tục tên gọi là làng Nồi. Địa hình của làng này như một cái nồi úp trên mặt nước vì bốn phía là sông và cánh đồng . Làng này từ xưa đã truyền tụng câu : " Đầu làng là Tụng , Giữa làng là Họa , cuối làng là bần ". Bởi vì những hộ của phần đầu làng có truyền thống kiện tụng lâu dài , giữa làng thì xẩy ra rất nhiều tai họa quái gở , cuối làng vì cờ bạc nên nghèo mạt rệp. Hai xóm Yên hội Đông và Yên Hội Tây chuyên sống bằng nghề cờ bạc.
Tuy nhiên , rất ít người , kể cả người của làng Đồng Thái biết rằng : Những dòng họ của Đồng Thái phát mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy không phải do đất Đồng Thái.


Thực chất , đất của làng quê Đồng Thái chỉ là được hưởng những khí chất tốt đẹp của một vùng đất gần núi , nơi là nghĩa trang chung của cả làng. Vùng đó chính là làng TRINH NGUYÊN , nơi đã hội tụ tất cả những Linh khí của cả vùng Đức thọ. Nơi đây cũng là nơi có phần mộ của Tổng Bí thư Trần phú. Nhìn chung Long mạch của vùng này , là nơi dùng chân của hành Long , xuất phát từ Tây tạng của Trung Quốc , vượt miền Tây Bắc , theo dọc dãy Trường sơn , một chi Long theo hai con sông Ngàn sâu , Ngàn phố về hợp lưu tại bến Tam xoa - Linh cảm. Nhìn chung địa hình vùng này , tất cả các núi đều đã tròn đầu , có hình dáng xinh tươi , đẹp đẽ ( Thường các bạn cứ để ý sẽ nhận biết được rằng : Khi mà các dãy núi đang hành Long thì có dạng nhấp nhô liên tục , đỉnh thường nhọn . Khi mà núi thưa dần và tròn đầu , hình dáng đẹp , cây cối xanh tốt là nơi mà Long mạch sắp dừng và kết Huyệt ). Long mạch vùng Linh cảm cũng vậy , tất cả các núi đều tròn và cách quãng theo từng đốt ( Mỗi đốt sẽ kết phát cho một Đời ). Phía Thanh Long có rất nhiều vòng ôm vào cuộc đất kết phát Long Huyệt. Tuy nhiên đầu Thanh long lại có chiều hướng duỗi ra xa , nên đàn ông ( Thanh Long là Dương , chủ về đàn ông ) phải ly Quê mới có thể thành tựu công danh được , những người ở lại tuy học vấn uyên thâm , nhưng bất quá chỉ là một anh Đồ làng. Nhánh Thanh Long có tới chín đốt , nên Long Huyệt này có thể kết phát tới 9 đời.Tuy nhiên , hiện nay vì tình trạng khai thác đất làm đường ( đất đỏ ) , quá tràn lan mà vô tình người ta đang tàn phá Long mạch này một cách trầm trọng.
Nhánh Bạch hổ bao gồm nhiều quả núi đất hình dáng tròn trịa như những trái Châu , lại có xu hướng ôm cuộn vào Long Huyệt . Bạch hổ là tượng Âm , tượng trưng cho phái nữ. Do vậy , Phụ nữ ở vùng Linh cảm - Đức thọ , vừa đẹp , vừa giỏi lại rất đảm đang.
Chính giữa của Tiểu Minh đường có một hồ nước rộng và rất đẹp ( Các bạn xem hình ở trên ). Trung Minh đường và Ngoại Minh đường là một vùng đất rộng lớn , xanh ngát màu của những ruộng lúa. Phía ngoài lại có nhiều sông lớn bao bọc hình vòng cung , chảy nghịch thủy , đem lại nhiểu Linh khí cho Long Huyệt.
dienbatn
Jun 12 2006, 02:59 AM

MỘT VÀI NÉT VỀ TỈNH HÀ TĨNH :
Diện tích: 6.054,75 km2.
Dân số (2004):1.289.013 người.
Tỉnh lỵ: Thị xã Hà Tĩnh.
Các huyện gồm: Thị xã Hồng Lĩnh, Hương Sơn, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Hương Khê, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Vũ Quang.
Dân tộc: Việt (Kinh), Chứt...
Hà Tĩnh là một tỉnh ở dải đất miền Trung, nằm trong vùng du lịch Bắc Trung bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào. Địa thế Hà Tĩnh toàn núi đồi, rừng rậm. Các dãy núi cao thường ở phía Tây. Một số núi đáng kể ở đây là núi Giăng Màn đoạn của Trường Sơn, có độ cao khoảng từ 1671 - 2286 m (6,858 ft)), núi Quang Vụ được cấu tạo bởi núi hoa cương, đá nai và mi - ca điệp thạch, độ cao trung bình 2000 m (6,000 ft), dãy núi Hồng Lĩnh, Đại hàm, Bà Mụ 1357 m (4,071 ft), Ong Giao 1100 m (3,300 ft), Hoành Sơn 1044 m (3,132 ft), Keo Nưa 735 m (2,205 ft), Rú Lâm 508 m (1,524 ft), Vàng, Rú Coi, Thiên Cầm, Nam Giới, Lạc Sơn, Trạm Voi, Cẩm Cao Vọng, đ èo Ngang... Đồng bằng chỉ là dải đất hẹp ven biển và xung quanh các trục đường quốc lộ.
Hà Tĩnh có tới 14 con sông lớn nhỏ và nhiều hồ nước. Sông ngòi trong tỉnh cũng giống như Nghệ An, dòng sông ngắn nhưng chảy ra cửa biển lớn. Những sông ngòi đáng kể là sông Con, Ngàn Phố, Ngàn Sâu, La Giang, Rào Con, Khe Trời, Rào Bầu Nước, Khe Canh, Rào Mốc, hai sông Cửa Sót và Cửa Khấu chảy ra hai cửa cùng tên... Bờ biển dài 137 km (85.6 miles). Quốc lộ 1A chạy qua tỉnh. Tỉnh có cửa khẩu Kẹo Nưa, thuận tiện giao lưu với các nước Lào, Thái Lan.

Nhiệt độ trung bình năm 23,7° C. Khí hậu thay đổi luôn, mùa mưa từ tháng chín đến tháng mười, các tháng tám, chín, mười hay có bão. Các tháng một, hai, ba tương đối ấm áp. Hai tháng tư, năm mưa rào gặp dốc nên thường lụt bất ngờ. Mùa khô từ tháng sáu, tháng bảy có gió lào rất khô, nóng.>>


Hai quốc lộ 1 và 8 là trục giao thông quan trọng để di tích thắng cảnh chuyên đến các tỉnh lân cận. Hà Tĩnh cách Hà Nội 340 km (212.5 miles), giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy đều thuận lợi. >>

BẢN ĐỒ TỈNH HÀ TĨNH

[attachmentid=338]
dienbatn
Jun 12 2006, 03:11 AM
Trong thời gian rảnh đọc sách , dienbatn tìm được một số tư liệu về các danh nhân quê tại Đức Thọ hoặc đã hoạt động tại Đức Thọ. Xin chép để các bạn đọc cho vui.
1/ Trường Tân Nhị Vị Tướng Quân Lê Thạch, Hà Anh
Hai vị tướng quân, một là Lê Thạch, tự Phúc Sơn, Một là Hà Anh, tự Quang Hoa, đều người ở La Sơn, Diễn Châu, nay thuộc Đức Thọ, Hà Tĩnh. Trong khoảng niên hiệu Thiệu Hưng đời Trần Nhân Tông, hai vị theo phò Thái tử có công lao, được phong là Chánh, Phó Thị đô lang tướng.
Thời ấy, sau khi nhà Nguyên đánh xong nhà Tống, vua Nguyên sai sứ là Ngột lương sang nước ta, truy hỏi địa giới cũ theo cột đồng Mã Viện. bất đắt dĩ vua Trần Nhân Tông phải cho quan Hàn Lâm hiệu thảo Lê Kính Phu đi cùng với Ngột Lương để tìm. Nhưng nhà vua lại sai hai tướng Lê Thạch, Hà Anh dẫn hơn hai ngàn quân cấm vệ gươm giáo chỉnh tề, đi theo hộ tống.
Thừa rõ âm mưu của nhà Nguyên muốn xâm lược nước ta, cho sứ gia sang chẳng qua chỉ để do thám và nắn gân trước, nên vua Trần Nhân Tông và triều đình đã lo kế hoạch đối phó. Một mặt nhà vua ra chỉ dụ cho Lê Kính Phu mềm mỏng thu xếp với Ngột Lương nhưng nhất thiết không dẫn y tới chỗ tương truyền là cột đồng. Mặt khác nhà vua cũng dặn Lê Thạch, Hà Anh saÜn sàng hành động để gây thanh thế.
Lê Kính Phu dẫn Ngột Lương đến vài nơi rồi cho người đ ào bới mà chẳng tìm thấy gì. Ngột Lương có ý nghi ngờ, rồi bực tức lên giọng hạch sách. Lê Kính Phu vẫn nhã nhặn. Được thể, Ngột Lương bắt phải tìm bằng được cột đồng. Lê Kính Phu lại dẫn y đến vài chỗ vu vơ khác. Cuối cùng, hơn một tháng sau, chẳng có tăm hơi, Ngột Lương vô cùng tức giận, không cho Lê Kính Phu và những người đi theo ra về, vẫn phải bắt tìm cột đồng cho bằng được ...
Lê Kính Phu bàn với hai vị tướng:"Tên sứ giả này quá quắt lắm, liệu hai ông có kế sách gì không?"
Lê Thạch nói: "Kế sách là ở như ngài, chúng tôi con nhà võ, chỉ biết có đánh thôi"
Hà Anh tiếp thêm: "Chúng tôi nay thân đã ở biên giới, giống như mũi tên đã lắp sẵn trên dây cung, chỉ tách cái là xong. Xin Ngài cũng chớ nên ngại. Chúng ta quyết chẳng thể làm nhục mệnh vua được".
Lê Kính Phu hiểu ý, hôm sau nói thẳng với Ngột Lương:
- Xin Ngài hiểu cho, xưa kia Mã Viện đến Phương Nam, chỉ thấy sử sách tương truyền là có dựng trụ đồng, nhưng chẳng ghi rõ là dựng ở đâu. Vả lại, nếu có dựng thì đã ngoại ngàn năm, dẫu là cột đồng thì cũng đã hư hại, mục nát rồi, làm sao bây giờ có thể tìm thấy được?"
Ngột Lương tức quá, định văng ra lời quát nạt, nhưng thấy Lê Thạch, Hà Anh xắn tay áo, lại trợn mắt nhìn trừng trừng, nên y cứng họng lại.
Rồi giả đò nói mấy câu mềm mỏng lấy lòng, y lảng sang chuyện khác. Ngay ngày hôm sau, y lập tức đánh bài chuồn ...
Ngột Lương hồi cung Nguyên, đem các chuyện về tâu lại với nhà vua của y. Vua Nguyên cho rằng Đại Việt khó nuốt, vậy hãy chiếm lấy Chiêm Thành trước. Chiêm Thành ở phía trong, nếu đánh được, thì về sau đánh Đại Việt cũng chẳng khó gì.
Vua Nguyên sai Toa Đô, Ô Mã Nhi, Trương Hổ đem mười vạn quân thủy, từ Hải Nam tiến thẳng vào Kinh đô Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành đầu hàng, nhưng khi đại quân Nguyên rút đi, vua Chiêm cho quan quân đánh trả lại bọn quân Nguyên ở lại chiếm đóng.
Vua Nguyên giận lắm, sai bọn tướng cũ tiếp tục đi đánh Chiếm Thành lần thứ hai. Ngột Lương nhân đó trình bày cách thừa cơ chiếm lấy Đại Việt bằng việc mượn đường sang đánh Chiêm Thành. Vua Nguyên nghe theo, lập tức cho sứ giả lên đường để thực hành kế đó. Mặt khác, vua Ngyên cũng cho đại quân tiến vào, áp sát ngay ở biên giới Đại Việt.
Thấy sứ giả đến mượn đường, vua Trần Nhân Tông cho vời các đình thần lại họp bàn. Người đồng ý cho mượn, người thì không, vua Trần cũng băn khoăn chưa quyết. Mấy ngày sau, chợt có quân canh phòng biên giới cấp báo quân Nguyên đã tới nơi, vua Trần lo lắng, bảo với tả hữu: "Quân Nguyên thế mạnh, ta phải làm gì bây giờ?". Mọi người lại họp bàn nhưng hồi lâu vẫn chưa ngã ngũ, và trong số đó, đã có vài người tỏ ý lo sợ. Lê Thạch thấy thế bước ra:
- Muôn tâu bê hạ. Quân Nguyên ngang ngược, cái ý xâm lược thực đã rõ ràng, còn mượn đường chỉ là cái cớ. Thần dẫu bất tài, cũng xin đem một đạo quân đến giữ chỗ hiểm yếu ở ải Trấn Nam, quyết chém bằng được đầu tướng Nguyên để đền đáp ơn sâu của bệ hạ.
Hà Anh cũng bước ra nói tiếp:
- Thần cũng xin mang quân đi giết giặc với Lê tướng quân, xin Bệ hạ chuẩn y cho.
Vua Trần Nhân Tông cả mừng, phong Lê Thạch làm Uy linh thượng tướng quân, thống lĩnh bốn mươi quân doanh, đến đóng ở cửa Hải Ải, phong Hà Anh làm Đông lãm đại tướng quân, cũng thống lĩnh bốn mươi quân doanh, đến cửa Cao Lâu đóng giữ.
Hai vị tướng dẫn quân rầm rộ tiến lênh phía Bắc, đi về phía Kháo Sơn. Nhưng khi vừa đến châu An Bát thì đã gặp ngay quân Nguyên đang tiến vào. Hai vị tướng lập tức dàn quân, bày thế trtận giao chiến. Lê Thạch cầm ngang cây đại lao, phóng ngựa phi lên trước. Hà Anh duỗi cây bát đồng mâu, quất ngựa tiến theo sau. Phía bên kia, tướng Nguyên Triệu Tộ cũng cầm vũ khí cưỡi ngựa xông ra.
Triệu Tộ đánh nhau với Lê Thạch nhưng sức địch không nổi, phải quay ngựa bỏ chạy. Lê Thạch đuổi theo sát phía sau. Hà Anh vòng ngựa sang bên trái chặn đường. Triệu Tộ trở tay không kịp, bị Hà Anh dùng bát đồng mâu đâm chết. Tỳ tướng của Triệu Tộ là Giải Ninh cũng bị quân ta giết luôn.
Trong trận mờ màn này ba nghìn quân giặc bị giết, phó tướng của Triệu Tộ cùng hơn năm chục tên khác bị bắt. Lê Thạch, Hà Anh sai người dẫn đám tù binh về Kinh đô báo tin thắng trận.
Sau đó, hai vị tướng tiếp tục dẫn quân tiến lên, gặp quân Nguyên ở Thuận Châu, rồi ở Phai Phụ. Cà hai trận này quân Nguyên đều thất bại. Tướng thống lĩnh Toa Đô tức giận nhưng không làm gì được, phải chuyển đại quân sang đường biển, tiến vào đánh các châu Gia Lâm, Đông Ngàn, Vũ Ninh rồi áp sát Kinh đô .
Vua Trần cùng triều đình rút về Ứng Phong, phong Trần Quốc Tuấn làm Hưng Đạo đại vương, thống lĩnh tất cả binh mã trong nước chống giặc. Trần Quốc Tuấn viết lời hịch truyền đi khắp nơi, động viên cổ vũ tinh thần tướng sĩ ...
Hai vị tướng Lê Thạch, Hà Anh sau ba trận làm cho quân Nguyên thua liểng xiểng, đã hạ trại lập đại bản doanh để chuẩn bị những trận chiến đấu tiếp theo. Nhưng chờ mãi, không thấy quân Nguyên tới. Sau lại hay tin quân Nguyên đã theo hướng khác tiến vào Kinh thành. Hai vị bàn nhau rút quân trở về để cùng đại quân của Trần Quốc Tuấn chống giặc.
Nào ngờ, khi hai vị cùng quân lính đi vào địa giới Phượng Nhân thì bị phục binh của quân Nguyên.
Từ bốn phía tên bắn ra ào ào. Hàng ngũ quân ta rối loạn. Rồi từ nhửng ổ mai phục, quân Nguyên ồ ạt xong ra. hai vị tướng cùng quân sĩ chiến đấu quyết tử với giặc, suốt từ sáng đến trưa vẫn không nao núng, mặc dù số thương vong cũng đã khá nhiều. Lê Thạch cười nói với Hà Anh: "Người xưa đã nói tráng sĩ ra trận không chết thì cũng bị thương.Nay hai chúng ta gặp ngày chết rồi, nhưng dẫu sau cũng phải cho quân Nguyên biết thế nào là hào khí Đại Việt chứ?"
Thế là hai vị lại tiếp tục chiến đấu từ giữa trưa đến tận chiều tối, và đến lúc ấy cả hai đều đã kiệt sức. Tướng Nguyên lừa thế, dùng dây kéo ngã chân ngựa, rồi xông vào bắt cả hai người.
Kế phục binh này là của Toa Đô. Y biết rằng đường dàn trận đánh nhau thì sẽ không hạ nổi hai vị tướng Đại Việt. Lại biết hai vị nhất định sẽ quay về cứu viện Kinh đô, nên y đã sai Trương Hằng đặt binh giăng bẫy trước.
Trương Hằng dẫn hai tướng Lê Thạch, Hà Anh bị bắt đến ra mắt Toa Đô, lúc ấy đang đóng bản doanh ở mé sông Việt Đức. Toa Đô bước đến tận nơi để nhận mặt, và khi ngắm kỷ dung mạo của cả hai người, y lẩm bẩm "Thật danh bất hư truyền", rồi sai lính cởi trói, và mời hai vị dùng cơm rượu.
Lê Thạch, Hà Anh hất tay lính ra, lớn tiếng mắng nhiếc bọn tướng Nguyên là đồ cướp nước, lại còn bảo chúng rằng tướng Đại Việt thà chết chứ không thèm ăn thứ của phi nghĩa ấy ...
Kế hoạch dụ hàng của Toa Đô thất bại. Y tức giận, sai lính dẫn hai vị ra bờ sông chém, rồi vứt xác xuống sông.
Xác của hai vị theo dòng sông trôi xuôi đến bãi cát ở bến Trường Tần thì quay vòng mà không đi nữa. Đêm ấy, dân trong làng nghe thâý ở bến sông nhiều tiếng chim kêu buồn thảm, như là có oan hồn hiện về. Sáng ra, mọi người thấy đầu và thân thể của hai vị tướng nổi lập lờ trên mặt nước. Tuy chưa thâý mặt của hai vị bao giờ, nhưng nhìn vào trang phục, diện mạo, dân chúng đều biết rõ là người của phía bên mình.
Mọi người bảo nhau xúm vào vớt thi thể của hai vị lên, rồi xếp đầu vào thân thể đúng theo vết chém cho khỏi lẫn. Sau đó, lấy gỗ đóng quan tài, rồi đem mai táng rất là trọng thể.
Đến khi dẹp xong giặc Nguyên, vua Trần Nhân Tông xuống chiếu ban thưởng cho những người có công với nước. Khi nghe tấu trình về hành trạng và công lao của hai vị tướng Lê Thạch, Hà Anh, nhà vua vừa thương xót vừa vô cùng cảm kích, bèn truy phong Lê Thạch là Chính trực đại vương và Hà Anh là Cương đoán đại vương. Lại xuống chiếu ban thưởng cho dân làng Trường Tân (xã An Tân huyện Gia Phúc) tiền bạc để lập đền miếu thờ cúng vong linh của hai vị tướng, cùng ruộng tự điền để dùng vào việc tế lễ.
Đến năm Trùng Hưng thứ tư, tặng thêm cho Lê Thạch hai chữ "Diệu cảm", Hà Anh hai chữ "Hùng nghị". Năm Hưng Long thứ 21, lại tặng thêm Lê Thạch bốn chữ "Hiển ứng an dân", Hà Anh bốn chữ "Triệu cơ khai thủy".
Hai vị được tôn là phúc thần của làng Trường Tân. Đến nay, đền miếu hãy còn uy nghi, hương khói quanh năm không lúc nào dứt.
2/ Mai Hắc Đế

Mai Hắc Đế (722)
Khơi Nguồn Khởi Nghĩa Đường Lâm

Sau khi Lý Phật Tử xin thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa để chịu ách Bắc thuộc lần thứ ba, đất nước Giao Châu lệ thuộc vào nhà Tùy (589-617) vào năm 603.

Khi Đường Thái Tông lập nên triều đại nhà Đường (618-907), trong thì dùng Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng; ngoài thì dùng Lý Tính, Lý Tích để thu tóm bốn phương vào một mối.
Vào đầu thế kỷ thứ VIII, sau thời gian Võ Tắc Thiên giữ ngôi Nữ Vương, lấy quốc hiệu là Chu, Lý Long Cơ lập lại vương triều nhà Đường, đưa thân phụ lên ngôi Hoàng Đế là Đường Duệ Tông, vài năm sau ngôi báu được nhường cho Lý Long Cơ là Đường Huyền Tông, thời Trung Đường.
Đời Đường Huyền Tông (713-756), nền văn học nghệ thuật của Trung Hoa được đánh dấu thời kỳ cực thịnh, thi ca thời Sơ Đường (618-713) và Thịnh Đường (713-776) rất lẫy lừng bởi những nhân tài xuất hiện như Vương Xương Linh, Vương Duy, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Trương Kế... để lại biết bao áng thơ trác tuyệt cho hậu thế, tạo niềm hãnh diện trong văn học với ánh hào quang trên văn đàn quốc tế.
Thế nhưng, từ Đường Thái Tông đến Đường Huyền Tông vẫn áp dụng con đường bành trướng của các triều đại cũ, cố mở rộng chính sách chinh phục từ Tây Vực đến Triều Tiên sang phía Nam bờ cõi, duy trì chính sách cai trị bằng vũ lực vì vậy quan lại ở biên cương có cơ hội trấn lột .
Năm Kỷ Mão (679) Giao Châu đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ, đóng đô ở Giao Châu, thay đổi khu vực, chia ra 12 châu và 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khởi nguồn từ đó.
Trong 12 châu đó gồm: Giao Châu, Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Trường Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái Châu, Hoan Châu và Diễn Châu. Vì vậy, danh xưng điạ danh Giao Châu kể từ đó gồm 8 huyện chung quanh khu vực Hà Nội ngày nay.
Đất nước An Nam trong thời gian đó luôn luôn bị loạn lạc giữa nội tình và ngoại xâm. Có nhiều cuộc nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Đường, trong đó có Mai Thúc Loan, huyện Thiên Lộc, Hoan Châu (nay thuộc Thạch Hà, Hà Tĩnh).

Quê hương của Mai Thúc Loan nổi tiếng với quả vải, người dân phải thu hoạch rất nhiều rồi chọn lọc ra loại tuyệt hảo để cống phẩm cho quan chức hưởng thụ và mang về dâng cho triều đình. Nạn cống triều với quả vải, còn gọi là lệ chi được gọi là “cống lệ chi” làm cho dân tình điêu linh, khốn khổ.
Sống trong cảnh lầm than đó, dòng họ Mai đã cam chịu từ đời nầy sang đời khác trong mảnh đất được gọi là gò họ Mai. Thế rồi, người đàn bà bất hạnh với cảnh đói rách phải đi làm thuê quần quật để lo cho miếng cơm manh áo, mang lấy bào thai, đẻ ra dứa con đen thui, đặt họ mẹ tên là Thúc Loan ở làng Ngọc Trừng.
Theo sách Thiên Nam Ngữ Lục thì nguời đàn bà nghèo khó nầy đến xem nấu muối, bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình rồi mang thai.
Tuy đen đủi, xấu xí nhưng Mai Thúc Loan thông minh, lanh lợi, có sức khỏe lạ thường và vô cùng gan dạ. Là người con chí hiếu, Mai Thúc Loan phụ giúp cho thân mẫu làm lụng, vào rừng kiếm củi. Thế rồi, cuộc đời bất hạnh lại ập đến cho cuộc đời cậu bé khi thân mẫu bị cọp vồ chết để cam phận trong cảnh đời mồ côi.
Mai Thúc Loan sớm sống cuộc đời tự lập, đi làm thuê cho gia đình làm lò đúc đồng, được thời gian rồi không chịu cảnh bị ức hiếp của bọn quan lại, hào phú nên theo phường săn bắn cho thỏa nguyện với cuộc sống.
Nhờ có sức khỏe và nhanh nhẹn nên Mai Thúc Loan trở thành tay đô vật và giỏi cung tên, được dân địa phương bầu làm thủ lĩnh. Người thợ săn Mai Thúc Loan có mồi thủ truyền kiếp với thù dữ nên bất chấp hiểm nguy, nghe nơi nào có bóng dáng thú dữ lai vãng liền tìm đến để diệt trừ. Tính gan da, can cường đó đã tạo niềm tin với mọi người nên khi có giặc Chà Dà và Côn Lôn cướp bóc, dân làng tôn Mai Thúc Loan lãnh nhiệm vai trò “Đầu Phu” để chống trả với giặc cướp.
Rồi mùa vải lại đến, quan quân nhà Đường bắt dân chúng phải thu hoạch và cống nạp, Mai Thúc Loan lãnh trách nhiệm cầm đầu nhóm dân phu, băng rừng lội suối để mang cống phẩm về châu, huyện.
Hận thù trước ách thống trị đó, Mai Thúc Loan liền hô hào dân chúng nổi dậy, năm Nhâm Tuất (722), năm Khai Nguyên thứ mười đời Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, cuộc phất cờ khởi nghĩa của Mai Thúc Loan được thành công khi chiếm được Hoan Châu, lập căn cứ cho công cuộc nổi dậy chống Bắc phương.
Mai Thúc Loan chọn căn cứ Hùng Sơn, Đại Sơn đề xây hào,đắp lũy và xây thành Vạn An, tự xưng là Hoàng đế và được mệnh danh là Mai Hắc Đế.

"Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung".
Cuộc khởi binh của Mai Thúc Loan được tiến hành chớp nhoáng nhờ sự hưởng ứng của dân làng, nghĩa binh từ vùng nầy lan rộng sang làng khác, có được đạo quân đông đảo , tuy chưa được huấn luyện thuần thục nhưng cũng áp đảo được quân giặc.
Để tạo uy thế mạnh mẽ, Mai Hắc Đế cho sứ giả vượt đèo Ngang vào Nam, qua Vụ Ôn sang Tâây, liên kết với Chân Lạp và Lâm Ấp để chống cự với quan quân nhà Đường; và được sự hỗ trợ của hai nước láng giềng nầy.
Mai Hắc Đế chiếm được phủ thành Tổng Bình (Hà Nội), quan Đô Hộ Quang Sở Khách hoảng sợ phải tháo chạy về nước xin cầu viện binh.

Nhà Đường phái quan Nội Thị là Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khách dem đại quân trở lại xung trận với Mai Hắc Đế.
Trước vũ lực hùng mạnh quả quân Bắc phương, Mai Hắc Đế khó chống cự nổi nên rút vào vùng núi Hùng Sơn, còn gọi là Rú Đụn, bên bờ sông Lam, cầm cự được thời gian ngắn, lâm bệnh nặng rồi mất.
Ngày nay ở núi Vệ Sơn, Nghệ Tĩnh còn có vết tích di tích thành cũ của Mai Hắc Đế và còn đền thờ ở Nam Đàn, Nghệ Tĩnh.
Tuy cuộc nổi dậy để khôi phục lại giang sơn đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn nhưng đã nói lên ý chí quật cường của con người bất khuất trước ách thống trị của bạo lực. Người dân nhớ ơn Mai Hắc Đế , lập đền, ghi lại ánh thơ:
“Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành lũy khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công...”.

Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại hình ảnh của Mai Hắc Đế:

“Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Bình dân hàm oán, trong ngoài họp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,
Cũng toan quét dẹp sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách, hai đàng giáp công,
Vận đời còn chửa hanh thông,
Nước non để giận anh hùng nghìn thu
Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn
Hùng Sơn gió lặng khói lang không..."”.
Mai Hắc Đế mất đi, An Nam chìm đắm lại trong thời kỳ Bắc thuộc. Và, trong thời gian sau đó, triều chính nhà Đường rơi vào tình trạng bất an bởi Đường Huyền Tông say mê Dương Quý Phi, An Lộc Sơn làm chức Tiết Độ Sứ kiêm cả khu vực Bình Lư, Phạm Dương và Hà Đông (nay là Sơn Tây) để rồi làm cuộc tạo phản năm 755, Đường Huyền Tông phải bỏ ngôi vua, lánh nạn ở đất Ba Thục. Mai Thúc Loan khởi nghĩa với địa lợi, nhân hòa nhưng chưa gặp thiên thời, nếu đúng vào giai đoạn tranh quyền ở Trung Hoa thì công cuộc quang phục quê hương sẽ được lâu dài.

Gần bảy mươi năm sau, mới có ngọn cờ khời nghĩa được tiếp nối với hình ảnh Phùng Hưng.
( dienbatn sưu tầm ).
dienbatn
Jun 12 2006, 03:14 AM
Trở lại với vùng quê Đức Thọ. Xung quanh các dãy núi của Linh cảm , hiện nay Nhà nước đã đầu tư kinh phí rất lớn để xây dựng và tôn tạo lại mộ của PHAN ĐÌNH PHÙNG và của TRẦN PHÚ. Một con đường rất đẹp được hoàn thành từ ngã tư Đức Thọ vào Linh cảm. Mộ của PHAN ĐÌNH PHÙNG được đặt trên một quả núi đất ( Nhánh Thanh long ) , có địa thế rất đẹp. Đồng thời với mộ của PHAN ĐÌNH PHÙNG , mộ của Cao Tăng và mộ của vợ PHAN ĐÌNH PHÙNG cũng đang được tôn tạo ( Các bạn coi hình ở trên ). Mộ của TRẦN PHÚ cũng được xây dựng rất đẹp.
Trong khu Từ đường của dòng họ Kiều , tại làng Đồng Thái , có một ngôi mộ của con trai Quan Đại thần HOÀNG CAO KHẢI là HOÀNG TÍCH TRÍ. Hiện nay ngôi mộ này đang bị sụp lở nghiêm trọng , không người thờ cúng. Chỉ đôi khi dòng họ Kiều tế lễ , họ mới thắp cho vài nén nhang. Hiện nay , không biết thân nhân của họ Hoàng ly tán đi đâu , nếu đọc được những dòng này , xin liên hệ với dienbatn để tìm cách tôn tạo lại.
Vùng đất này còn sản sinh ra nhiều nhân tài cho Đất nước về sau này. Vì lý do giữ những Huyệt vị kết phát cho Đất nước , người viết xin không phân tích cụ thể hình thế và vị trí cụ thể của Long Huyệt này , chỉ biết rằng Long Huyệt này sẽ còn kết phát lâu dài và sản sinh ra nhiều Nhân tài cho nước Việt.
Tại Huyện Đức Thọ còn một khu vực khác nữ kết phát Long Huyệt với tình thể rất lớn. Đây là một khu vực ven bờ sông La ( Ở phía ngoài đê chính - Ở ngoài có một con đê phụ ) . Con sông La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa Huyệt . Con sông la và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn khu vực . Tại khu vực này là một vùng có Long khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Trở lại vùng Địa Huyệt đang xét , ta nhận thấy đây là một bày Long rất lớn có dạng như một bày Quy ( Rùa ) . Cách bờ sông chừng 500 m là cả một bày Quy có dáng như vừa bò từ dưới sông lên . Tại khu vực Địa Huyệt là một con Quy rất lớn đang đẻ trứng , đầu Quy hướng về phía cung Khôn , đuôi Quy về cung Cấn . Ổ Trứng Quy nằm trong cung Quý . Toàn bộ 4 ngôi mộ Tổ dòng họ Hà được đặt trong ổ trứng này . Chỉ tiếc là tại hướng Chấn - Phía Đông có mấy lò gạch đã đào đất làm gạch rất sâu , phá mất Long mạch tại chi Thứ ( Thường là những vùng có Long mạch , đất kết thành loại đất sét rất tốt cho làm gạch ) . Do vậy Long mạch này chỉ phát được chi Trưởng , làm đến chức Tam công mà chi Thứ lại vẫn yếu hèn . Đằng trước Long Huyệt có những gò đất nổi lên hình cái Trống , cái Bảng , lá cờ. Do vậy mà con cháu những người táng tại khu vực này học rất giỏi và thành tài ở khắp nơi trong và ngoài nước. Khu vực Long Huyệt này nằm tại làng Vĩnh Đại - Xã Đức vinh - Huyện Đức Thọ - Tỉnh HÀ TĨNH .
dienbatn
Jun 12 2006, 03:20 AM
THỊ XÃ HÀ TĨNH

[attachmentid=340]

ĐƯỜNG ĐI ĐỨC VINH

[attachmentid=341]

NHÁNH SÔNG LA CHẢY QUA ĐỨC VINH

[attachmentid=339]

TỪ ĐƯỜNG DÒNG HỌ HÀ TẠI ĐỨC VINH

[attachmentid=342]

TRỐNG TRƯỚC LONG HUYỆT

[attachmentid=343]
dienbatn
Jun 12 2006, 03:21 AM
Thân gửi các bạn trên Diễn đàn.
Tính của dienbatn hay đi Ta bà. Do vậy nếu đã đến Hà tĩnh mà chưa đi chùa Hương của Hà tĩnh thì chưa phải là người ham chơi. dienbatn xin viết tặng các bạn một đôi điều về chùa Hương tại Hà tĩnh trong chuyến đi điền dã của mình.
GIỚI THIỆU CHÙA HƯƠNG TẠI HÀ TĨNH :

" Phiên bản chùa Hương
Chùa Hương Tích ở Hà Tây thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Tây từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ. Chùa này được chính thức xây dựng từ đời Trần (có thể đồng thời với chùa Yên Tử). Khi Trần Nhân Tông lên tu ở chùa Hoa Yên (Yên Tử), trại trạng nguyên Bạch Liêu, quê huyện Yên Thành (phủ Diễn Châu), cũng dời nhà vào chân núi Hồng Lĩnh cho tiện việc thắp hương ở chùa Hương Tích.
Hương tích Trần triều tự
Hồng Sơn đệ nhất phong
(Hương Tích ngôi chùa đời Trần, dựng trên ngọn núi đẹp nhất Hồng Lĩnh).
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp đã viết như vậy trong chuyến thăm chùa, năm 1774. Tương truyền, đây là nơi công chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo. Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương "phiên bản" ở phía bắc? Câu trả lời là vào thời Lê - Trịnh, các vua Lê - chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh - Nghệ thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những "người đẹp" đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Tây để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các "người đẹp" đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam). Còn theo Can Lộc dư địa chí, thì vào thời chúa Trịnh, có một Chúa đã vào đây cầu tự và sinh được thế tử. Vì thế hằng năm Chúa sai người về làm lễ tạ ơn Phật. Về sau, thấy Hương Sơn - Hà Tây cũng có cảnh đẹp, lại ở gần kinh thành, Chúa bèn cho xây ngôi chùa ở đấy để tiện việc đi lại, khỏi phải vào Hồng Lĩnh xa xôi. Ngôi chùa ở Hà Tây cũng gọi theo tên Hương Tích của ngôi chùa Hồng Lĩnh. Như vậy nhờ "sáng kiến" của chúa Trịnh mà nước ta có hai chùa Hương Tích.
Chùa Hương gốc
Nếu đường vào chùa Hương ở Hà Tây bắt đầu từ dòng suối Yến tấp nập những du thuyền thì lối vào chùa Hương ở Hà Tĩnh cũng từ mênh mông hồ nước nhà Đờng (Đường) theo dòng suối rộng có tên là suối Hương Tuyền đi ngược lên. Nhưng do nhiều năm trước trung tâm chùa Hương Tích mờ dần (ba lần chùa Hương này bị tàn phá bởi giặc Minh, thực dân Pháp và cháy rừng). Vì thế có nhiều khoảng thời gian chùa không, rừng quạnh bởi không có sư về trụ trì. Chùa Hương vắng bóng du khách, suối Hương Tuyền chỉ dành cho thuyền đi chở đá núi về kè đập, xây hồ. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, cứ vào dịp 18-2 âm lịch hằng năm (đúng như lịch trẩy hội chùa Hương ở Hà Tây) có hàng nghìn du khách, đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp từ khắp nơi trong cả nước, vượt dốc núi dài gần tới 4.000 m để tới chùa Hương.
Giống như chùa Hương ở Hà Tây, quần thể chùa Hương ở Hà Tĩnh gồm có thượng điện (chùa chính), đền Thiên Vương và am Thánh Mẫu (theo truyền thuyết là nơi công chúa Diệu Thiện tu hành và hóa Phật). Ngoài ra chùa còn có những cảnh đẹp liên kết: động Tiên Nữ 36 cửa vào ra, am Phun Mây, suối Tiên tắm...
Đến với chùa Hương Tích là đến với vẻ đẹp quyến rũ của Hồng Lĩnh. Trước khi lên núi vãng cảnh chùa, du khách được thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ nước rộng hàng trăm ha hòa quyện với núi rừng tạo thành bức tranh sơn thủy. Con đường lên chùa có từ xa xưa, qua những rừng thông, rừng trúc, rừng mai, qua những dòng suối biếc, mỗi nơi đều có một truyền thuyết khác nhau. Càng đi sâu vào núi, càng bị cuốn hút bởi cảnh đẹp thiên nhiên.
Sau hơn một giờ thăm rừng, du khách đến bên suối Hương Tuyền (còn gọi là suối Giải Oan) nghỉ ngơi lấy sức cho chặng tiếp theo. Bên suối có Miếu Cô (truyền thuyết gọi là trạm nghỉ của Phật Bà), vẫn còn ngôi miếu cổ và tượng Phật Bà Quan âm dựng trên đài cao. Đi lên phía thượng nguồn dòng suối, có đoạn nước chảy ngầm dưới những phiến đá to chỉ nghe tiếng ầm ầm mà không nhìn thấy nước, dân gian gọi là khe Âm ầm, truyền thuyết gọi là khe Quỷ Khóc. Cũng từ trạm nghỉ Miếu Cô, du khách sẽ lên thăm am Bát Cảnh bên dòng suối Cái Am được xây từ đời Trần, nay vẫn còn khá nguyên vẹn, tương truyền là nơi tu hành của một nhà sư thời đó.
Từ Miếu Cô lên chùa là chặng đường leo núi thú vị, càng lên cao càng cảm nhận được vẻ đẹp kỳ vĩ của Hồng Lĩnh. Mây bay dưới núi dõi mắt về phía nam là dãy Hoành Sơn, phía tây là Trường Sơn, phía đông là biển cả, du khách có cảm giác như mình đang lạc vào xứ Bồng Lai.
Chùa tĩnh nhưng mỗi năm cũng có hơn vạn người đến viếng. Đông nhất là tháng giêng, hai và ngày rằm tháng bảy. Dịp đó dân nghèo xã Thiên Lộc mở quán dày đặc dọc lối lên phục vụ du khách. Năm 1990, chùa được Nhà nước cấp bằng di tích văn hóa - thắng cảnh. "
( dienbatn sưu tầm ).
dienbatn
Jun 12 2006, 03:31 AM
MỘT SỐ CẢNH HƯƠNG TÍCH HÀ TĨNH .

[attachmentid=344]

[attachmentid=345]

[attachmentid=346]

[attachmentid=347]

[attachmentid=348]

[attachmentid=349]

[attachmentid=350]

[attachmentid=351]

[attachmentid=352]

[attachmentid=353]

[attachmentid=354]

[attachmentid=355]
dienbatn
Jun 12 2006, 03:51 AM
GIỚI THIỆU MỘT SỐ CẢNH ĐƯỜNG LÊN HƯONG TÍCH HÀ TĨNH

[attachmentid=356]

[attachmentid=357]

[attachmentid=358]

[attachmentid=359]

[attachmentid=360]

[attachmentid=361]

[attachmentid=362]

[attachmentid=363]

[attachmentid=364]

[attachmentid=365]

[attachmentid=366]

[attachmentid=367]

[attachmentid=368]

[attachmentid=369]

[attachmentid=370]

[attachmentid=371]

[attachmentid=372]

[attachmentid=373]

[attachmentid=374]

" HÔM NAY EM ĐI CHÙA HƯƠNG "

[attachmentid=375]
dienbatn
Jun 12 2006, 03:57 AM
Các bạn , ai chưa một lần ghé thăm Hương tích ở Hà tĩnh , hãy cố tạo cho mình một chuyến. Cảnh Hương tích ở Hà tĩnh còn hoang sơ , đầy chất vẻ của Thiên nhiên , hầu như chưa biết tới ảnh hưởng của nghệ thuật DIVU.( Dịch vụ ) như ở Hà tây. Tuy nhiên , người viết cũng mong muốn rằng, đừng để những công trình bê tông , cốt sắt và những dịch vụ kiểu đó lan tới Hương tích Hà tĩnh , ngõ hầu giữ được một cảnh đẹp thuộc loại kỳ quan và giữ cho Long mạch Hà tĩnh được yên ổn. Người viết cũng rất mong muốn những người lãnh đạo tỉnh Hà tĩnh , biết đề ra một tầm nhìn chiến lược khi khai thác cảnh đẹp của Hương tích, đừng để phá hỏng một cảnh đẹp kỳ thú của Thiên nhiên và một Long mạch quan trọng của Đất nước. Mong rằng Hương tích của Hà tĩnh mãi mãi là một cảnh đẹp thiên nhiên đến say lòng người.
Trên đường ra Bắc , dienbatn muốn cùng các bạn ghé thăm một nơi có Di tích quan trọng nữa của Hà tĩnh , đó là Di tích Đền Củi - Nơi thờ ông Hoàng Mười.

ĐỀN THÁNH MẪU LINH TỪ HAY ĐỀN ÔNG HOÀNG MƯỜI ( ĐỀN CỦI ).

Từ Thành phố Vinh theo đường Quốc lộ 1A , theo hướng Nam khoảng 10 Km , hoặc từ Thị xã Hà Tĩnh , theo hướng Bắc khoảng 40 Km là đến Xã Xuân Hồng- Huyên Nghi xuân - Tỉnh Hà tĩnh. Nơi đây , dãy Hồng lĩnh như một con Rồng đang vươn mình tới sông , cúi đầu xuống uống nước Lam giang. Sông Lam như đang dịu dàng , ôm ấp , vỗ về Hồng Lĩnh để tạo thành một vùng non nước hữu tình.
" Dãy núi dồn nhau xuống phía Đông ,
Để rơi một ngọn cạnh bờ sông ,
Chân lèn sâu cạn , triều lên xuống ,
Mõm núi dày , thưa có chéo chồng.
Núi lặng , mõ canh , chòi gác vắng ,
Tai không rửa bẩn nước nguồn trong ,
Lướt bè trên Nguyệt , đêm qua lạnh ,
Vẽ lại Ngân hà cảnh đẹp chung. "
Thơ BÙI DƯƠNG LỊCH.
VÕ HỒNG HUY dịch.Những ngọn núi dồn nhau xuống phía Đông ấy là núi Ngũ Mã , còn hòn rơi cạnh bờ sông là Núi Khu độc ( Cô độc ). Nơi đây đã trở thành một trong Nghi xuân bát cảnh mà người đời vẫn gọi là Cô Độc Lâm Lưu, có lẽ không phải vì sự hùng vĩ của núi cao , sông rộng và sự hòa sắc , giao duyên của Sơn - Thủy hữu tình mà phải chăng còn bởi ngôi Đền thiêng thờ Thánh Mẫu Linh từ ( Đền Củi ). Ngôi Đền tọa lạc tại mái Bắc núi Khu độc , mặt ngoảnh ra sông , hướng về phương Bắc , dựa lưng vào núi . Các tòa điện cao dần theo thế núi uy nghiêm , đường bệ, trong ngút ngàn màu xanh của rừng cây cổ thụ , ngắm nhìn mênh mông sông nước Lam giang và tạo ra một không gian kiến trúc vừa huyền ảo vừa khoáng đạt , gần gũi.
Từ đường Quốc lộ 1A, men theo chân của Ngũ Mã sơn khoảng 300m , rồi lại men theo mép Lam giang vài chục mét nữa là đến khu Đền thiêng. Đền Củi có tên chữ là Khu độc Linh từ , được lập vào cuối thời Lê. Đền đã trải qua vài lần tôn tạo , nhưng vẫn giữ lại được những nét xưa trang nghiêm , thần bí và hài hòa với khung cảnh Thiên nhiên và tâm thế của dân gian..

ĐỀN CỦI : MỘT SỐ HÌNH ẢNH .

[attachmentid=376]

[attachmentid=377]

[attachmentid=378]

[attachmentid=379]

[attachmentid=380]
dienbatn
Jun 12 2006, 04:00 AM
Theo tài liệu THÁNH MẪU LINH TỪ của nxb Nghệ an như sau : Tam quan Đền ở cạnh liền bến sông , cao 2 tầng , có lưỡng Long chầu Nguyệt, đường nét uyển chuyển mà tinh xảo.Mặt trước Tam quan có hai câu đối :
Lam giang hiển hách tự Thiên thu ,
Ngũ Mã anh linh chung tú khí.
và có câu đối khác là :
Kim quyết giáng Thần bất tử anh linh nguyên tự cổ ,
Sùng Sơn hiển Thánh như khí phách giáng lai kim.
Nghĩa là : Thần giáng cửa vàng , anh linh bất tử nguyên từ cổ.
Thánh thăng trên núi ( Sùng ) , khí phách như sinh thịnh đến nay.

Mặt trong của Tam quan có câu đối :
Chình trực tâm vi Thiên hạ Mẫu ,
Cao minh đức độ tứ phương Dân.
Nghĩa là : Mẫu Thiên hạ gìn tâm chính trực ,
Bốn phương hưởpng đức cao minh.

Qua Tam quan , vòng qua hồ bán Nguyệt ở sân dưới của Đền , qua 7 bậc thềm và thêm 5 bậc nữa là tới Đền.
Tổng quan Kiến trúc của Đền được xây kiểu chữ Tam , bao gồm ba tòa , mỗi tòa 3 gian.Khác với những ngôi Đền khác , ở đây , các tòa nhà liên kết thống nhất với nhau và toàn bộ không gian nội thất được bố trí thành các cung thờ : Tam tòa Thánh Mẫu , ( Mẫu tam phủ ) ; Ngũ vị Tôn Ông ;cung Hoàng Mười , cung chầu Mười , cung Trần triều.
Ở tòa trên cùng , có cung thờ Tam tòa Thánh mẫu : Mẫu Liễu Hạnh , Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải . Mẫu Liễu Hạnh mặc trang phục màu đỏ , Mẫu Thượng ngàn mặc trang phục màu xanh , Mẫu Thoải mặc trang phục trắng.
Ở đây , Mẫu Liễu Hạnh là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên - Chủ nhân sáng tạo ra bầu Trời , và làm chủ quyền năng mây , mưa , sấm , chớp. Mẫu Liễu Hạnh là Công chúa Quỳnh Hoa của Ngọc Hoàng , do phạm lỗi phải giáng xuống Thế gian làm con của Lê Thái Công, tên là Giáng tiên , được gả cho Đào Lang - con nuôi của một người bạn Trần công.Vợ chồng Đào lang - Giáng tiên chung sống hạnh phúc, sinh hạ được hai con , thì Giáng tiên qua đời khi mới 21 tuổi - Nàng đã hết hạn ở Trần giới và phải về Trời. Nhưng rồi ở Thiên cung ,Nàng luôn sầu não nhớ thương chồng con , nên cố xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho tái hợp gia đình.Ngọc Hoàng bằng lòng, Nàng lại xuống Trần và lần này mang tên Liễu Hạnh. Vì là Thần Tiên nên Nàng chỉ có thể thăm cha , mẹ , chồng , con, chứ không thể sống như người Trần được.Liễu Hạnh đi mây , về gió , hóa phép khôn lường để đùa cợt với người đời. Kẻ nào bỡn cợt , giở thói Trăng hoa bị Nàng trừng trị , gây cho nhiểu tai họa.Ai gặp nạn , khấn cầu ,Nàng tận tình giúp đỡ. Về sau được Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ , được Triều đình phong làm Mã Hoàng Công chúa , lại được gia tặng là Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương , dân gian gọi là Bà Chúa Liễu - Vị Chúa quản cả mười phương , là Mẫu Nghi Thiên hạ ( Các bạn có thể đọc thêm tư liệu về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong cuốn VÂN CÁT NỮ THẦN của nữ sĩ ĐOÀN THỊ ĐIỂM ) .
dienbatn
Jun 12 2006, 04:13 AM
Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh mẫu toàn năng , trông coi miền rừng núi , địa bàn sinh sống chính của các dân tộc người thiểu số. Truyền thuyết kể lại rằng : Vào thời Hùng Định Vương , một trong số 18 Thế Đại Vương triều , Hoàng hậu mang thai mãi mà không đẻ. Lúc đầu , mọi người rất lo sợ , nhưng về sau rồi cũng thấy quen dần. Vào năm thứ ba , một hôm , Hoàng hậu đi chơi trong rừng , bất ngờ cơn đau đẻ ập đến , những người theo hầu lúng túng không biết lo liệu làm sao , còn Hoàng hậu thì đau quá chỉ biết ôm chặt lấy thân cây quế . Cuối cùng thì Hoàng hậu cũng sinh ra một cô con gái , nhưng vì kiệt sức , Hoàng hậu An nương qua đời, để lại cho Vua một cô con gái yêu , đặt tên là Mỵ nương Quế Hoa. Lớn lên , Mỵ Nương Quế Hoa vừa xinh đẹp , vừa ngoan ngoãn , tới tuổi cập kê mà vẫn không màng tới chuyện chồng con , chỉ luôn nhắc đến người mẹ yêu quý đã sinh ra mình.
Sau khi biết rõ ngọn ngành , Công chúa quyết chí vào rừng tìm mẹ, không từ những gian lao nguy hiểm. Công chúa đã chứng kiến những cảnh cơ cực đói nghèo của dân chúng trong những bản làng xác xơ , nơi Công chúa đi qua. Những lúc như vậy , Công chúa Mỵ nương trăn trở , tìm cách để giúp những người dân lành , lam lũ , cực khổ. Một đêm , giữa rừng núi âm u , nàng cảm thấy hơi âm của mẹ và thảng thốt kêu lên " Mẹ ơi , Mẹ ơi ". Như đồng cảm với nỗi lòng của nàng , một ông Tiên hiện ra , trao cho nàng phép thần thông , có thể rời non lấp biển , cứi giúp dân lành , học phép trường sinh . Có được sách Tiên , Công chúa cùng với 12 Thị nữ ra sức học phép Thần thông. Chẳng bao lâu , họ đã biết cách rời núi khai sông , đưa nước về tưới cho ruộng đồng tươi tốt , mang lại âm no hạnh phúc cho dân làng .Sau khi có được cuộc sống âm no , bản làng trù phú , một hôm , có một đám mây ngũ sắc hạ xuống đón Mỵ nương và 12 Thị nữ bay lên Trời. Từ đó nhân dân lập đền thờ tôn vinh Mỵ nương là bà chúa Thượng ngàn , hàng năm mở hội vào mồng một tháng tư âm lịch để ghi nhớ công ơn của Thánh Mẫu.
Lại có truyền thuyết kể rằng : Công chúa La bình , con của Sơn tinh và Mỵ nương , cháu ngoại của Vua Hùng , là một cô gái Tuyệt sắc , có nhiều tài nghệ , thường đi chu du khắp rừng núi hang động. Đi tới đâu , nàng cũng quyến luyến với cảnh vật , làm bạn với nhiều cây cỏ , chim thú. Các vị Sơn Thần đều rất quý mến Nàng và được Nàng bảo ban , giúp đỡ . Dân trong vùng vì thế cũng được yên ổn , âm no. Hay tin đó Ngọc Hoàng Thượng Đế rất khen ngợi Tản viên và La Bình , phong cho nàng là bà Chúa Thượng ngàn ( Thượng ngàn Công chúa ) cai quản 81 cửa Rừng ở cõi Nam Giao.

TAM QUAN ĐỀN CỦI
[attachmentid=382]

TOÀN CẢNH ĐỀN CỦI

[attachmentid=381]

CUNG THỜ CHƯ PHÂT.

[attachmentid=383]

CUNG THỜ HOÀNG MƯỜI

[attachmentid=384]

CUNG THỜ NGŨ VỊ QUAN LỚN.

[attachmentid=385]

CUNG THỜ NHỊ VỊ CHẦU BÀ.

[attachmentid=386]

CUNG THỜ TAM PHỦ.

[attachmentid=387]

CUNG THỜ THÁNH MẪU LINH TỪ

[attachmentid=388]

CUNG THỜ TRẦN TRIỀU.

[attachmentid=389]
dienbatn
Jun 12 2006, 04:16 AM
Mẫu Thoải là vị Thần cai quản vùng sông nước , xuất thân từ dòng dõi Long Vương. Sự tích kể lại rằng : Thuở Trời Đất mới mở mang , rừng núi sông hồ hãn còn hoang vu , Kinh Dương Vương thường đi du hí khắp nơi. Một hôm đến vùng sông nước , đầm lày , gặp một người con gái nhan sắc tuyệt trần , tự xưng là con gái Long Vương ở Động Đình Hồ. Kinh Dương Vương đem lòng yêu mến và lấy làm vợ. Sau này sinh ra Sùng Lãm - Chính là Lạc Long Quân - Thủy tổ bố Rồng của người Lạc Việt. Người con gái xinh đẹp đó sau này được suy tôn là Mẫu Thoải.
Ở xứ Nghệ , truyền thuyết kể lại rằng : Thủa ấy , Kinh Dương Vương đóng đô ở Ngàn Hống ( Núi Hồng Lĩnh ) và gặp người con gái ở sông Thanh Long ( Tên cổ của sông Lam ).
Lại có truyền thuyết nói rằng , Mẫu Thoải là vợ Vua Thủy tề , được Thượng Đế phong là Nhữ nương Nam nữ Nam hải Đại Vương , coi việc sông , biển , làm mưa , chống lũ,lụt.
Đó là sự tích của Tam tòa Thánh Mẫu.
Cũng ở Điện này , bên phải Tam phủ còn có cung thờ của Nhị Vị chầu bà - Chầu Thượng Ngàn và chầu Thoải. Đây là điểm khác biệt so với các Đền thờ Mẫu khác ở các nơi , chỉ có Nhị Vị chầu Bà , chứ không có Tứ vị chầu Bà. Duy chỉ có Đền ông Hoàng Mười là có cung thờ riêng.
Chầu Thượng Ngàn - Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn , vị Thánh thống soái trong hàng các chầu , cai quản vùng núi non , sơn cước.
" Vốn dòng Công Chúa Thiên thai ,
Giáng về Hạ giới quản cai Thượng ngàn ,
Quản cai các lũng cùng làng.
Sơn tinh , cầm thú , hổ lang cúi đầu."

Tương truyền Bà là con gái một gia đình người Mán ở Động Cuông - Tỉnh YÊN BÁI. Bà được sinh ra khi bố mẹ đã ngoài 50 tuổi. Từ nhỏ Bà chăm chỉ làm việc thiện , không lấy chồng. Sau khi Bà mất , Bà hiể linh cứu giúp dân lành, nên được nhiều nơi lập Đền thờ cúng , không ai ngồi dồng mà Bà không giáng Khi Bà giáng , Bà mặc sắc phục màu xanh đặc trưng cho Nhạc phủ.
Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải - Vị Thánh có dáng vẻ u buồn , mặc y phục và khăn choàng màu trắng.
Phía dưới cung thờ Tam Phủ là cung thờ Ngũ vị Quan lớn ( Ngũ vị Tôn Ông ) , từ Quan Đệ Nhất tới Quan Đệ Ngũ.Trong Ngũ vị Quan lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan Đệ Nhị xuất thân từ Thiên Thần. Quan Đệ Nhất vâng lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống Trần để cứu giúp dân lành khỏi sự quấy phá của Tà Quan :
" Thỉnh mời Đệ Nhất Thượng Thiên
Lai tâm chứng giám đền chung oai hùng,
Kiên trì lục trí Thần thông ,
Quan các Tam giới phi phong phép màu
....
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra
Tôn Quan lĩnh chỉ xuống qua phàm Trần.
Trước là mở Phủ , khai Đàn ,
Sau là thu tróc Tà Quan phen này."
( Văn chầu Quan Đệ Nhất ).
Quan Đệ Nhị cũng là Thiên Thần xuống Trần gian trấn giữ Thượng ngàn.
" Thượng ngàn giám sát quản cai ,
Thông chi Thiên - Địa Khâm sai Đại Thần.
Phép màu ra võ đằng vân ,
Trừ Tà sát Quỷ , cứu dân phen này "
( Văn chầu Đệ Nhị Quan ).
Ở cung thờ này có đôi câu đối của Tiến sĩ Hoàng Kiêm bái phụng như sau :
" Biến hóa vô nghê Thiên bổ lục kỳ tiên tích cổ.
Linh thanh hữu hách hồng phong cửu thập Thánh từ cao "
Nghĩa là :
"Biến hóa không màu dấu Tiên xưa nơi Thiên bổ lục kỳ.
Linh thiêng hiển hách đền Thánh ngôi cao trên chín chục đỉnh núi Hồng " Ở cung thờ này còn có hai bức hoành phi : Nữ trung anh kiệt và Khu Độc Linh Từ ( Các sách Địa chí viết về Nghi xuân đều không chép rõ về tên chữ của Đền. Ở núi Cô Độc ( Khu Độc ) , sát cạnh Đền Thánh Mẫu cũng không có ngôi Đền nào > Vậy có lẽ tên chữ của ngôi Đền này là Khu Độc Linh Từ.
Dưới cung Ngũ Vị Quan Lớn là hàng các Ông Hoàng , được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười.
Tương truyền , cũng như tích các Quan , các Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình.Tuy nhiên theo khuynh hướng Địa phương hóa , thì các ông Hoàng đều được gắn với một nhân vật nào đó ở cõi Nhân gian. Những Danh Tướng có công dẹp giặc , những người khai sáng , mở mang bờ cỡi cho Đất nước.Tương truyền Ông Hoành Đệ Nhất là danh Tướng của Lê Lợi. Ông Hoàng Đội - Hoàng Đôi?? ) - Đệ Nhị lại có những gốc tích khác nhau : Ông Đội ở Cẩm Phả là người Mán có công chống giặc , bảo vệ dân lành. Còn Ông Hoàng Đôi ở xứ Thanh lại là Quan Triệu Tường , người có công mở mang đất đai , giúp dân sinh sống. Ông Hoàng Bơ ( Hoàng Ba ) , có công phò Vua đánh giặc. Ông Hoàng Lục tức là Tướng Trần Lựu , có công chống giặc Minh. Ông Hoàng Bảy là viên Quan Triều đình trấn giữ vùng Lào cai - Yên Bái. Ông Hoàng Bàt là theo tâm thức nhân dân vùng Hà tĩnh - Nghệ an là hiện thân của Lê Khôi (? - 1446 ) vị Tướng của Nghĩa quân Lam sơn , gọi Lê Lợi bằng chú , từng có nhiệu công chống giặc Minh xâm lược.Sau chiến thắng , làm Quan trải qua ba đời Vua Lê là Lê Thái Tổ , Thái Tông và Nhân Tông., làm đến chức Khâm sai Tiết chế Thủy , lục chư dinh hộ vệ Thượng Tướng quân. Ông từng trông coi Tây Đạo , Thuận hóa. Từ 1943 - 1946 trấn giữ Nghệ an và Hà tĩnh. Ông mất vào ngày 3/5/ Bính Dần ( 1946 ) , sau khi chiến thắng quân Chiêm Thành trở về. Ông được truy tặng Nhập Nội Hành khiển , Thái úy Tán Quốc Công. Lăng mộ của ông được táng tại ngọn Long ngâm , núi Nam Giới - Cửa Sót - Thạch hà - Hà tĩnh.. Ông được xây Đền thờ và làm lễ Quốc tế ; sau đó lại được tấn phong là Uy mục Đại Vương và năm 1487 lại được phong là Chiêu Trưng Đại Vương.
Có chuyện kể rằng : Ông Hoàng Mười là một Tướng tài của nhà Lê ( Lê Khôi??). Ông được nhà Vua tin yêu và giao Thống soái đạo quân trấn thủ Hoan châu. Ông vừa có công dẹp giặc , vừa có công chăm sóc , vỗ về dân chúng làm ăn , khai mở lưu thông buôn bán với mọi miền. Nhờ vậy mà đời sống dân tình ngày càng thêm no ấm , khá giả. Một năm kia , giặc ngoại bang tràn vào , Ông đã xông pha trận tiền , đốc thúc binh lính dẹp tan giặc , giữ yên bờ cõi. Khi thắng giặc trở về thì một trận cuồng phong ập vào nhà cửa của dân chúng đổ nát , hư hỏng nhiều vô số kể Thương dân , ông cùng binh sĩ lên ngàn chặt tre , đốn gỗ đưa về giúp dân. Một lần không may , khi bè xuôi về đến chân Ngàn Hống ( Hồng Lĩnh ). ở núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè. Ông gặp nạn. Quân sĩ và dân làng chưa kịp mai táng thì mối đã đùn lên đắp thành mộ. Mộ mỗi ngày một to lên trông thấy. Cảm phục và biết ơn Ông , dân trong vùng đã lập Đền thờ ông ở núi Ngũ Mã. Thác rồi , xong Ông vẫn Linh thiêng , thường hiển Thánh cứu giúp muôn dân.
Cũng trên đất xứ Nghệ , nhưng Ông Hoàng Mười còn được nhân dân đồng nhất với những nhân vật Lịch sử , nổi tiếng , gắn bó với vùng quê này như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang , con trai thứ 8 của Lý Thái Tổ , từng làm Tri Châu Nghê an , có rất nhiều công lao giữ gìn bờ cõi , chăm sóc nhân dân.
Là Thánh Thần , dù là hiện thân của Chiêu Trưng Đại Vương hay Uy Minh Vương , nhưng Ông Hoàng Mười vẫn rất gần gũi , gắn bó và có cái gì đó phù hợp với tâm lý và phong cách xứ Nghệ. Đó là con người có chí khí nam nhi , anh hùng ngang dọc , văn võ toàn tài , có trí , có Dũng.
LẠM BÀN : Hiện nay theo dienbatn được biết , có ba nơi được coi là Đền ông Hoàng Mười : Hai ở Hà tĩnh và một ở tại Nghệ an. Ở Hà tĩnh chủ yếu là Đền Củi - Tại Khu Đôc sơn. Đền này có từ lâu đời. Một Đền thờ Ông Hoàng Mười nữa mới được xây bên bờ sông Lam ở phía Nghệ an. Có lẽ sau khi tách tỉnh : Hà tĩnh - Nghệ an ( Thay vì Nghệ tĩnh ) mà mỗi tỉnh phải có một Đền thờ Ông Hoàng Mười cho công bằng??? Theo sự khảo sát của dienbatn thì cách Thị xả Hà tĩnh khoảng 4Km ( dienbatn quên mất tên ) , Ở ven bờ biển , hiện nay có một Đền thờ trương truyền của Ông Hoàng Mười cùng hơn chục vị quân sĩ khác . Khu vực này vẫn còn hơn chục cái mộ và một Đền thờ nhỏ nhưng rất Linh thiêng. Theo truyền lại thì đây mới là nơi Ông Hoàng Mười và một số quân sĩ khác bị đắm thuyền khi trời có bão.
Một việc nữa là hình thế của Long mạch tại Đền Củi. Hồng Lĩnh chín mươi chín ngọn như một con Rồng uốn lượn. Khi đến địa phận Đền Củi , hình dáng như một con Rồng đang cúi xuống uống nước sông Lam. Chỉ tiếc rằng con đường Quốc lộ 1A băng qua , tạo nên một nhát kiếm chém đứt đầu Rồng , cái đầu rơi ra chính là Khu Độc sơn , nơi có Đền Thánh Mẫu Linh từ. Có phải vì vậy mà Hà tĩnh nghèo hơn Nghê an , mặc dù núi sông hùng vĩ hơn , điều kiện thuận lợi hơn. Ngày nay Hà tĩnh so với Nghệ an thì quá nghèo - Tuy chỉ cách nhau có một con sông Lam??????
dienbatn
Jun 12 2006, 04:18 AM
Trong số 10 Ông Hoàng thì có sáu Ông Hoàng thường giáng đồng. Trong đó có ba Ông giáng thường xuyên là Ông Hoàng Bơ( Ba ) , Ông Hoàng Bảy và Ông Hoàng Mười. Ông Hoàng Mười có Đền thờ ở Hà tĩnh và Nghệ an như phần trên đã viết . Ông Hoàng Bơ ( Ba 0 có Đền thờ ở Phủ Lý - Hà Tây - Chuyên dùng vàng trắng như Mẫu Thoải . Ông Hoàng Bẩy có Đền thờ ở Bảo Hà - Lao Cai . Tục truyền Ông Hoàng Bẩy thường có tật cờ bạc và hút thuốc phiện , nên dân Lô đề thường đi chầu ở Bảo Hà rất đông để xin lộc . Còn tại Hòn gai là Đền cửa Ông thờ Trần triều .
Tại Đền Củi - Hà tĩnh , nơi cung thờ Ông Hoàng Mười có hai bức Đại tự : MẪU ĐỨC CHIẾU ÁNH và HUYỀN TỪ BỐ CHỮNG . Ngoài ra còn có hai câu đối của Tiến sĩ Hoàng Đình Nguyên bái phụng :
Quá giá hóa tồn giả Thần vị liệt Nam bang tứ bất .
Quốc hữu từ gia hữu tự danh cao Thiên bản lục kỳ .
Có nghĩa là :
Cái đã qua là hóa , cái còn lại là Thần , nước Nam có bốn vị bất tử .
Nước có Đền , nhà có Miếu , Trời cao vốn có lục kỳ .
Ngoài ra ở đây còn có cung Chầu Mười - Tương truyền Chầu Mười gốc người Thổ , đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng , trấn ải phía Bắc nước ta .
" Gặp thời Thái Tổ khởi binh ,
Theo Vua giết giặc Liệu Thăng hàng đầu .
Vua sai trấn giữ các Châu ,
Khắp hòa xứ Lạng địa đầu giang sơn .
( Văn Chầu Mười ).
Khi giáng Đồng , Chầu Mười thường ăn mặc theo trang phục của người dân tộc thiểu số , nhạc Chầu Văn theo điệu Xá thương , mang đặc trưng của các dân tộc miền núi .
CUNG THỜ TRẦN TRIỀU : TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG .
Trần Hưng Đạo là một nhân vật lịch sử có thật thuộc thời Trần . Ông là người có công đầu trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược . Nhân dân Đại Việt tôn xưng là Thánh Trần ( ĐỨC THÁNH TRẦN ) .Trong tín ngưỡng Đạo Mẫu , Đức Thánh Trần thường được quy về dòng Long Vương - Bát Hải Đại Vương . Tại Đền Củi , Đức Thánh Trần được đặt riêng ra thành một Phủ - Phủ Trần Triều . Về hạng bậc , Ông được đồng nhất với Vua cha trong đối sánh với Thánh Mẫu . Ngày giỗ ( Cũng chính là ngày Lễ hội ) của Trần Triều đồng nhất với ngày giỗ Cha : Tháng Tám giổ Cha , cùng với Bát Hải Đại Vương .
Phủ Trần Triều ở Đền Củi hiện vẫn còn đôi câu đối của Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình - Tương truyền ông bái phụng vào Đền sau khi được giải oan , thoát khỏi tội chết :
Trinh hiếu nhất tâm Thánh huấn tuyên dương kim tự cổ .
Hoá sinh tam chuyển Thân linh hiển hách Bắc như Nam .
Mặt tiền hạ Điện ngôi Đền có hai tầng mái , trông bề thế , thâm nghiêm nhưng vẫn có những nét thanh thoát , uyển chuyể . Bức tường giữa hai mái có đề bốn chữ : THÁNH MẪU LINH TỪ .
Các bạn có thể tham khảo vài câu đối sau ở các hàng cột Hạ Điện : Đức niên miếu vũ .
Vạn cổ tinh thần .
Có nghĩa là :
Đức Miếu lưu đức .
Tinh thần muôn thủa .
Và : Mã lĩnh củng triều chung tú khí .
Xuân đài chiêm ngưỡng lạc đồng nhân .
Nghĩa là : Núi Mã quây chầu hung đúc nên khí đẹp .
Đài xuân chiêm ngưỡng mọi người vui .
Đền Củi nổi tiếng linh thiêng , hàng năm khách hành hương trong cả nước và Quốc tế đổ về đây vãn cảnh và hành lễ . Hàng năm , vào dịp giỗ Thánh Mẫu ( Ngày 3/3 và ngày 10/8 ) khách thập phương đổ về nhiều vô kể , bãi xe rất lớn cũng không chứa xuể , xe phải đậu thành hàng dài ngoài Quốc lộ 1A . Mọi người về đây hành lễ ( Hát Chầu Văn ) với một niềm tin sẽ được Thánh Mẫu ,các Ông Hoàng , Quan Lớn và Đức Thánh Trần phù hộ , độ trì cho ăn nên , làm ra phát tài , bốn mùa không hạn ách , tám tiết không nạn xâm .Thật là một chốn Bồng lai Thiên cổ .
dienbatn
Jun 12 2006, 04:19 AM
ĐỊA TIÊN THÁNH MẪU VĂN


Bóng gương loan mẫu đơn một đoá,
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa .
Có chầu Nguyệt điện Tiên xưa .
Lánh miền cõi tục phận ưa nam thành .
Kiếp giáng sinh vào nhà Lê thị .
Cải họ Trần dấu khí Thiên hương .
Vốn sinh có vẻ phi phương ,
Giá danh đòi một hoa Vương khôn bì .
Ngụ thai quê Phủ Dày , Thiên bản .
Phủ Nghĩa hưng là quán Sơn nam .
Trẻ thơ chưa biết duyên phàm
Đeo kinh còn vết để làm dấu thiêng .
Tuổi tới niên cài trâm , giắt lược ,
Kết duyên lành quê phước một nơi .
Gối chăn vừa mới quen hơi
Ai ngờ dưới Nguyệt sảy nơi tơ hồng .
Đạo vợ chồng còn đang thương nhớ ,
Bỗng hoa hài lại giở gót Tiên ,
Giờ Dần mồng Ba tháng Thìn ,
Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên Trần phàm .
Ấy ai làm chăn thương gối thảm ,
Kiếp hay nguyền lãnh đạm về đâu ?
Lương quân dạ rối đòi nao ,
Xuân huyên nào biết thảm sầu mấy cơn .
Rầy Thánh đã cung Tiên Nguyệt quế ,
Dễ xui lòng Trần thế xót xa ,
Có phen Tiên lại nhớ nhà ,
Bỗng thời Tiên ở đường xa ngự về .
Thăm bản quê hương huyên đất nước ,
Cửa nhà chồng sau trước mọi nơi .
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Đồi Ngang - Phố Cát là nơi duyên lành .
Ca tính tình , tiếng tơ , tiếng trúc .
Thương một người bạc Phúc dân ngây ,
Cho nên Tiên mới thử tay .
Dễ đâu mà lánh , khôn thay mà phòng .
Sự mơ mòng thực hư nhường giới .
Lòng Trần gian mê muội biết đâu .
Tuy rằng hồn phách nhiệm màu ,
Khuôn thiêng tích để đã lâu đến rày .
Cũng nhiều ngày cưỡi mây hương gió .
Vào Nghệ an sẵn có nhân duyên .
Nước non khéo kết nên nguyền .
Chốn thanh cảnh lịch kết duyên cũng vừa .
Ấy duyên xưa hay là nợ mới .
Hội phi thường Thánh mới sinh con .
Tuổi vừa ba , bốn khôn ngoan ,
Hiềm đâu Thánh để lại con cho chồng .
Chữ Sắc - Không xem thường mới biết ,
Lấy của gì là kiếp là chăng ,
Tính thiêng không ngại gió trăng .
Ai ngờ phút hợp , phút tan nữa hoài .
Song vật nài làm chi cho khổ .
Đứng duyên lành sẵn có nhiều nơi .
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Cây cao bóng mát là nơi giữa đường .
Giếng âm - dương xưa nay trong sạch ,
Khi nắng mưa trợ khách đường xa .
Đồi Ngang - Phố cát vào ra .
Đôi khi giáp cõi Thanh - Hoa đất lành .
Chốn cảnh thanh Tiên thường ngự đấy ,
Khách vãng lai tự ấy mới hay .
Cho nên Tiên mới ra tay ,
Một ngày khôn vái hai ngày khôn van .
Khách thác oan phải nhiều phi mệnh .
Bèn sai ra đội mệnh nhà Vương .
Ngữ tình kíp giận khôn lường .
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ .
Súng phá luôn vang như sấm động ,
Dấu thiêng nào dám chống Quốc uy ,
Thánh bèn ngự thiện lánh đi .
Than rằng má phấn đâu bì trượng phu .
Sao không xét Âm - Dương nhị lý .
Lại ra điều lấy ý nạt nhau .
Lệnh Trời ai dám chi đâu ,
Còn ai ở Thế biết nhau sau này .
Chốn am mây từ ngày nguy biến .
Ai còn kẻ dâng tiến đèn hương .
Nền xưa hiu quạnh tuyết sương .
Trăng hoa giãi tỏ trăng vàng còn chen .
Các bạn Tiên về tâu Thượng Đế .
Có Tiên chầu Thánh mẫu ngự chơi .
Đồi Ngang - Phố Cát nghỉ ngơi ,
Lầm con mắt tục ra người bạo hung .
Đã phá tan nơi ăn chốn ở ,
Lại còn điều càn rỡ nhuốc nha ,
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra ,
Đào , Lan , Quế , Huệ bách hoa mọi nàng ,
Xuống Đồi Ngang thăm chầu Tiên Thánh .
Xem Tiên chầu đức chính ra sao ?
Phán rằng phẩm trật Thiên Tào ,
Mà sao Trần thế hỗn hào tam phân .
Trách Thôn dân những người ở đấy ,
Sao con Trời dám lấy làm khinh .
Sơn xuyên đòi lại bách linh .
Gia uy sẽ thử anh linh bõ bèn .
Chớ sát hại nhân gian chi quá ,
Trời là Cha - Thiên hạ là con .
Ví dầu đua mạnh tranh khôn .
Thời nhân gian đó ai còn dám đương ?
Vua Ngọc Hoàng phán lời nhân thử ,
Các cung Tiên vâng cử ra đi .
Tới nơi hỏa tốc tinh phi .
Trước thời thăm Thánh , sau thời trách dân .
Đã yêu phần càng thêm yêu nghiệt .
Quở dân phàm sợ khiếp hơn xưa .
Dân mong lập Điện nên thờ .
Bách Quan đội lệnh sau xưa cho tường .
Chốn Đồi Ngang thờ chầu Tiên Thánh .
Tự hương tàn , khói lạnh nhường nay ,
Lấy làm khuất mắt khôn hay ,
Gia uy thời cũng nhiều người sợ kinh .
Tâu Thánh minh ngự qua nhời ấy ,
Lập Đền thờ tự đấy mới yên .
Người đâu quái dị nồng nàn ,
Xót thương dân tục lầm than phải tùy .
Sắc tức thì tặng phong Chế thắng .
Biển vàng treo " Thượng Đẳng Tối Linh "
Muôn dân từ đấy sợ kinh ,
Mới hay phép Thánh anh linh , nhiệm màu .
Khắp đâu đâu nức danh từ đấy ,
Ai kẻ còn dám lấy làm khinh ,
Dù lòng hiển Thánh anh linh .
Đến đâu thời đấy hãi kinh giờn giờn .
Cũng có cơn hiền lành vui vẻ .
Phấn điểm trang chải rẽ thanh tao .
Dù khi thất ý nơi nao ,
Dường con sư tử bào hao dậy giàng .
Thêm đôi bà chầu Quỳnh , chầu Quế .
Ấy là trong nghĩa đệ thân huân ,
Hôm mai chầu chực áo khăn .
Uy nhờ Tiên Thánh có phân nồng nàn .
Rầy Mẫu đã về ngàn nhân đức .
Quyền đôi bà xem xét trang nghiêm .
Có khi nương gió thác rèm ,
Ai nương bóng Thánh càng thêm não nùng .
Cũng có khi quyền chung tiệm nhớ .
Cũng có khi qua nhớ lại thôi ,
Thương khi duyên chắp phận xui ,
Ban tài , ban Lộc , ban Ngôi , ban Quyền .
Kẻ lỗi nguyên càng thêm bầm nhỡ .
Có lòng tin khấn khứa truyền tha .
Trọn bề bách nguyệt hồn hoa ,
Đã nên một cảnh yên hà có danh .
Xưa Thánh chốn yên lành cùng ngự ,
Cũng từng quen Tiên nữ năm , ba
Rẩy chân xuống sợ Sa bà .
Khuôn phù Ngọc ân , quản ba giới Thần .
Gia uy linh cứu nhân , độ Thế .
Trẻ cùng già ai nấy đội ơn .
Ban Tài , ban Phúc , ban Nhân ,
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường .
Bài này hát theo điệu chầu văn . dienbatn đã có lần bỏ mấy này để ngồi theo suốt gần chục giá hầu . Phải công nhận rằng , giữa ngút ngàn hương khói nhang trầm , tiếng đàn réo rắt , tiếng mõ điểm thanh tao , chính xác , tiếng hát chầu Văn vủa một cô tre trẻ , đèm đẹp , thật không uổng phí cuộc đời ở cõi Ta bà này .

dienbatn
Jun 12 2006, 04:20 AM
CHẦU VĂN GIÁ CHẦU ÔNG HOÀNG MƯỜI .

Cánh hồng thấp thoáng trăng thanh ,
Nghệ an có đức thanh minh ra đời .
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông , dẹp Bắc việc ngoài binh nhung .
Thanh xuân một đấng anh hùng .
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam .
Hai vai nặng gánh cương thường ,
Sông Lam sóng cả , buồm dương một chèo .
Dựng nền đức Thuấn nhân Ngiêu ,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi .
Khi Bích động lúc Bồng lai ,
Non nhân , nước trí mọi nơi ra vào .
Cỏ hoa hớn hở đón chào .
Nhớ xưa Lưu Nguyễn lọt vào Thiên thai .
Trời Nam có đức Hoàng Mười ,
Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai .
Nền chí dũng , bậc thiên tài ,
Văn thao - Võ lược tư Trời thông minh .
Tiêu dao di dưỡng tang tình .
Thơ Tiên một túi - Phật Kinh trăm tờ .
Khi Phong nguyệt , lúc bi từ .
Khi xem hoa nở , khi chờ trăng trong .
Khi Thứu lĩnh , lúc non Bồng ,
Cành cây mắc võng , lòng sông thả thuyền .
Người Thành thị , khách Lâm tuyền ,
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang .
Phong quang đẹp ý Đức Hoàng .
Khác nào Thu cúc - Xuân lan tới tuần .
Xiết bao bể ái , nguồn ân .
Ban Tài , tiếp Lộc , thi nhân , thi từ .
Gác ở đàng mượn gió đưa .
Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu
Năm ba Tiên nữ theo hầu ,
Trăm hoa cài tóc , nhiễu Tàu vắt vai .
Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi ,
Dâng câu thiện bảo chúc lời tăng long .
Trần duyên chưa trút được lòng ,
Dường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên .
Nghề thường hội nghị quần Tiên ,
Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng .
Vân tiên mượn cánh chim hồng ,
Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?
Cầu Ô đem bắc sông Ngân ,
Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng .
Bóng trăng soi tỏ canh trường .
Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người .
Thủy tiên dìu dắt đón mời ,
Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng .
Vượt bể đào tới ngàn xanh .
Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non .
Trúc xinh cô Quế cũng giòn .
Phù dung yểu điệu - Mẫu đơn não nùng .
Ngày ngày lên núi ngóng trông .
Đỏ hoe khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng .
Nhớ xưa hẹn ngọc , thề vàng .
Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi
Lên núi rồi lại xuống đồi ,
Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ .
Vào rừng hái lá đề thơ ,
Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người .
Cõi Trần mở tiệc mừng vui .
Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh .
Rượu đào kính chúc Thánh minh .
Phong hoa , tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương .
Ngẫm câu Thế sự vô thường
Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần
Vắng người vắng cả mùa Xuân .
Nhớ người vì Nước , vì Dân , vì Đời .
Thế gian nhớ miệng Hoàng cười
Nhớ khăn Hoàng chít , nhớ lời Hoàng ban .
Khi phố Cát , lúc đồi Ngang ,
Nón kinh vó ngựa , dăm ngàn tiêu dao .
Đường đường cung kiếm anh hào ,
Túi thơ , bầu rượu sớm chiều sênh sang .
Hèo hoa chảy hội Tiên hương
Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây .
Khi nương gió , lúc cưỡi mây .
Khi rung khánh ngọc , khi lay chuông vàng .
Hoàng về gối xếp ai mang ,
Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông .
Lệnh truyền cô Quế , cô Hồng ,
Hèo hoa , gối xếp , đèn lồng tay mang .
Cô Lan , cô Huệ xếp hàng ,
Gióng yên , dắt ngựa lên đàng vân du .
Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa ,
Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ an .
( Theo THÁNH MẪU LINH TỪ ) .

Gia Phả HỌ BÙI LÀNG HÓI
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HỌ BÙI LÀNG HÓI.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HỌ BÙI LÀNG HÓI
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.