GIA

PHẢ

TỘC

HỌ
LÊ:
Tại
Đức
Tùng
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
LỜI NÓI ĐẦU
Nói về quê hương, là nói đến nơi thờ phụng tổ tiên, là nơi thiêng liêng, nơi tổ tiên sinh ra ông cha mình. Mọi người đều sinh ra và xuất phát từ một gia đình, nhiều gia đình cùng một dòng máu huyết thống là dòng họ, nhiều dòng họ hợp lại là một xã hội. Từ khi sinh ra và lớn lên mỗi người một ngành, một nghề, sinh sống một địa danh khác nhau. Ai cũng vậy không thể quyên được cái nguồn, cái gốc, cái rễ.
Cái nguồn có sâu thì dòng mới xa, cái gốc có vững thì thì cành lá mới sum suê, ấy là cái lẽ tự nhiên không thể nào khác được
Chim có tổ người có tông. Sinh ra ở đời, không ai mà không xuất thân từ gia đình. Sinh thành, nuôi nấng, giáo dục ơn nhờ cha mẹ, với sự nương tựa chủ chốt vào ông bà, và sự giúp đỡ, dìu dắt của bác chú cô dì cùng anh chị em ruột thịt. Tình yêu thương máu mủ và nghĩa vụ tác thành đã tạo cho mọi người đạo lý cương thường hầu như được thiên nhiên phú tính. Do đó, tình cảm yêu thương thân thuộc được hình thành trong bản chất của mỗi người, từ đối xử trong gia đình đến quan hệ ngoài xã hội, từ họ hàng gần xa, đến xóm làng, quê hương, tổ quốc.
Họ Lê ta đời đời kế tiếp trải mấy trăm năm, mặc dù đã lắm bể dâu mà bụi trần chẳng vấy. Bàn về chuyện cấy cày, đèn sách, luận về ý nghĩa thường giữ nếp nhà, há chẳng do tổ tiên đời trước đã xây nên cơ nghiệp vững bền đó sao? Đã là con cháu, thì cần phải biết lấy việc đọc sách như việc cấy cày làm nếp đẹp truyền gia, lấy đức, tài, hiếu thảo, thuận hòa làm đầu cho mọi mục tiêu, càng ngày càng phát triển và trưởng thành để không thẹn với di huấn của tổ tiên ta, ấy là điều phúc đức lâu dài vậy. Họ Lê ta trải qua mấy trăm năm nay công lao do đâu mà có, đáng cho đời sau suy nghĩ, kế đó mà thi thư nối nghiệp. Có các học hàm, học vị Giáo sư, Tiến sỹ, Đại biểu Quốc hội, Thấy thuốc ưu tú, cán bộ cao cấp, cấp hàm Thượng tá, Đại tá, và các sỹ quan trong quân đội. Đặc biệt tưởng nhớ các liệt sỹ trong họ đã anh hùng hy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc… Tuy chưa giám nói là thế gia lệnh tộc cũng đáng là một họ tiêu biểu cho chốn hương thôn nói riêng, cho xã hội nói chung. Nghĩ đến để lại hương thơm cho đời sau. Vị Thủy tổ ta mở mang tạo nghiệp từ xưa, các tổ sau vun đắp. Thật đúng là nguồn nước đã sâu lại sâu thêm, gốc đã bền lại vững thêm.
Nền tảng của mối quan hệ là gia đình, họ hàng, Cho nên truyền thống của mối quan hệ này đã thành tập quán từ xưa, được ghi chép thành “gia phả”. Gia phả giúp cho con cháu đời sau biết được lai lịch của cha, ông, tổ tiên mình, đức tính, nghề nghiệp, cuộc đời và tuổi thọ (năm sinh, và ngày tháng năm mất) để tưởng nhớ, giổ tết; cốt nhất là để cho mọi người anh em họ hàng biết được quan hệ bậc thứ trong gia tộc để xưng hô, đối đãi, thăm hỏi, giúp đỡ nhau. Đối với quan hệ gia đình, họ hàng thì năm nữ trong họ không kết hôn với nhau theo pháp luật quy định để tránh quái thai theo di truyền học. Gia phả có tác dụng chủ yếu để cho con cháu các thế hệ sau, kế thừa, học tập truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, không những phấn đấu để theo kịp cha ông, mà còn phát huy trong cuộc đời và sự nghiệp của mình cho rạng rỡ thêm, để “con hơn cha là nhà có phúc”. Dĩ nhiên sự tiến bộ của đời sau được theo đà tiến hoá của xã hội nói chung, nhưng sự cố gắng noi gương của người trước vẩn là một yếu tố khích lệ cần thiết. Đặc biệt về cương thường, luân lý, lễ giáo gia đình, tôn ty trật tự, tư cách đạo đức, không làm điều sai trái là trọng yếu hàng đầu, để khỏi mang tiếng là “con nhà vô phúc” mà phụ bội công đức sinh thành giáo dục của cha, ông.
Riêng họ Lê ta, nhìn ngực lại quá trình lịch sử, các cụ Thủy tổ (8 đời về trước cụ Lê Đình Định) Cụ thủy tổ Lê Đình Định có nho học, thi trúng hiệu sinh, làm thầy địa lý (phong thủy). Anh là Lê Đình Trà, làm Cai cơ Hữu Ninh, đạo Lạng Sơn, được triều Nhà Lê phong tước Đặng Thọ Hầu (tước thứ 2 ). Cụ Lê Diệm, húy là Hoàng, con cụ Lê Đình Định (thường gọi là cụ Đĩnh) sinh ra 4 chi họ Lê ở làng Tròi, đương thời cụ đi lính làm cai, nên tục gọi là cụ Cai Hợp. Nay ta xưng là Cao Cao Tổ.
Đời thứ nhất:
Cụ Lê Đình Diệm sinh ra 4 con trai, có cụ Lê Đình Giảng là con đầu (Chi 1) thi đậu sinh đỗ (như tú tài đời Nhà Nguyễn), làm thầy dạy học, Cụ Lê Đình Đồng (Chi 2) làm Hiệp quản ở Võ dinh huyện Diễn Châu- Nghệ An, chết trận (mất tích), cụ Lê Đình Thành, (chi thứ 3) và cụ Lê Đình Điều (chi thứ 4) đều làm nghề nông, lão nhiêu ở làng. Dưới đây kể đại lược;
Đời thứ 2:
Có con cụ Lê Đình Đồng (Chi 2) là Lê Hữu Dực làm thông lại ở phủ Diễn châu; cụ Lê Đình Thành (Chi 3) có con cả là Lê Hữu Dụng, làm thơ lại ở Trấn Nghệ an và con thứ là Lê Văn Phú cũng làm lại mục, thọ 75 tuổi. Cụ Lê Đình Điệp (Chi 1) và các cụ Lê Đình Tăng, Lê Đình Đoài (Chi 4) đều làm nghề nông, lão nhiêu ở làng cả Đức Tùng.
Đời thứ 3:
Chỉ có các con của cụ Lê Văn Phu (Chi 3) theo học nối nghề cha dó là: Cụ Lê Văn Nhàn (1856 – 1915) làm thông lại ở Hương Khê, cụ Lê Đình Ái làm thừa phái ở Hương Sơn, cụ Lê Văn Mân làm thừa phái ở Thạch Hà. Con cụ Lê Hữu Dực (Chi 2) ở Diễn Châu là Lê Đình Tịch, tức Lê Diễn, thì mở hiệu thành Bảo buôn bán, là người kinh doanh thương nghiệp trong họ ta. Còn các chi ở làng đều nối nghiệp làm ruộng.
Đời thứ 4:
Dưới thời Pháp bảo hộ, mấy người có học nho, tiếp tục phục vụ Nam triều:
- Ông Lê Quốc Trân (Chi 3), tức Văn Thao (1886-1943) làm thơ lại ở Niết Ty, tỉnh Hà Tĩnh, được sắc Cửu phẩm văn giai.
- Ông Lê Đình Cảnh (Chi 3), làm thông lại ở huyện Hương Khê, cũng được sắc Cửu phẩm văn giai.
- Ông Lê Văn Tấn, tốt nghiệp thành chung tân học, làm hiệu trưởng trường Pháp Việt tỉnh Hà Tĩnh, sắc Hàn lâm Thị giảng.
- Ông Lê Đình Duyệt (Chi 2) làm thư ký sở Hảo xa, Hà Nội (mất vì ung thư phổi do nghiện thuốc lá)
- Ông Đình Luân, làm công nhân cơ khí ở nhà máy Trường thi (Vinh) được sắc Cửu phẩm, là người làm nghề thợ đầu tiên, và cũng là người Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của Họ Lê ta.
- Ông Lê Trần Đức, vừa có nho học và tân học, làm nghề thuốc Đông y rồi làm nghề kế toán, Tư pháp giám định kế toán và Giám sát các công ty Công chúng kiệm trữ tại Tòa Thượng Thẩm Hà Nội. Từ năm 1945, làm Giám đốc Sở Ngũ Cốc Bắc Bộ, Quyền Đổng lý sự vụ bộ kinh tế, kiêm tổng thanh tra Tài chính. Đại biểu Quốc hội khóa I. Từ 1959, làm Lương y ở Viện Y học cổ truyền dân tộc Hà Nội, được nhà nước tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú năm 1989. Từ 1989, truyền thu Y học dân tộc cho các bác sỹ thuộc Học viện Quân y, Viện Quân y 103 và viện 354 Bộ quốc phòng ở Hà Nội.
Đời thứ 5:
Ngoài nhiều người trong họ làm cán bộ các cấp, có :
Bác sỹ Lê Thanh Cần (con Ông Lê Quốc Văn) ở Cảng Thành phố HCM.
Lê Văn Giáp, thầy giáo Trường phổ thông Trúc Sơn về hưu.
Kỹ sư Lê Văn Trinh (mất năm 1985 vì chó nhà cắn)
Lê Đình Truy, Đại tá quân đội nhân dân (thọ 58 tuổi).
Kỹ sư giao thông Lê Đình Xuân (con Ông Phác)
Giáo sư PTS Lê Đình Khả, ở Viện nghiên cứu Lâm nghiệp.
Kỹ sư Lê Đắc Quý (con Ông Đức) Phó giám đốc Nhà máy Giấy Bãi Bằng về hưu.
Kỹ sư Lê Thị Mai Liên (con Ông Nhuận) ở Nhà máy Rượu Hà Nội.
Kỹ sư Lê Thị Thu Thủy (con Ông Lan) ở Viện Vật liệu xây dựng.
Đại học ngoại ngữ Lê Thị Thu Hà (con Ông Lan) ở Bộ Y tế, nghiên cứu sinh ở Hà Lan
Bên ngoại có giáo sư tiến sỹ Bùi Mưu (con bà Lê Thị Tám) ở Khoa Luyện kim Trường Đại học Bách Khoa, Hà Nội.
Đời thứ 6:
Cử nhân luật Lê Đình Hiển (con Lê Tiến) Thượng tá Quân đội (2006), Ban Cơ yêu Chính phủ. có vợ là Chu Thị Thủy, tiến sĩ, Giảng viên Trường Đại học Thương Mại Hà Nội.
Tiến sĩ Lê Xuân Huỳnh (con Lê Quốc Hoài) Giảng viên Trường Đại học Xây dựng.
Bác sĩ Lê Ngọc Anh (con Lê Quốc Quý)
Kỹ sư Lê Hồng Lĩnh (con Lê Văn Giáp) ở Bộ Công nghiệp.
Kỹ sư Lê Anh Tuấn (con Lê Đình Truy) đã hi sinh
Kỹ sư Lê Thị Như Mai (con Lê Đình Thuyên) ở Điện cơ Hà Nôi.
Lê Tuấn Phi, Thượng úy Quân đội Nhân dân Việt Nam (con Lê Đình Truy).
Bác sĩ Quân y Lê Anh Tuấn (con Lê Đắc Quý đã mất).
Đời nào, con cháu họ Lê cũng đều phục vụ Chính quyền bảo vệ và xây dựng đất nước:
Dưới thời phong kiến, cụ Lê Đồng đã hi sinh hồi cuối thế kỷ 18, trong khi giữ chức Hiệp quản ở Võ Dinh huyện Diễn Châu Nghệ An.
Trong các cuộc chống Pháp, mỹ Họ Lê có người đã hi sinh cho Tổ quốc:
Lê Quốc Báu (con ông Lê Quốc Trân) năm 1948 ở quân dưới liên khu 4.
Lê Đình Tý (con Ông Lê Loan), Lê Đình Hòa (con Ông Lê Đình Duyệt)
Lê Anh Tuấn, bộ đội không quân mất ở Nha Trang.
Lê Đình Thành (con Ông Lê Đình Quán) kỹ sư địa chất đi bộ đội mất ở Quảng Trị.
Lê Đức Vinh (con Ông Đức) mất năm 1970 trong khi xây dựng lại Nhà máy dệt Nam Định, bị bom Mỹ tàn phá.
Qua các thời đại, những người họ Lê ta, kể cả trí thức là những người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cho đến sĩ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang, công chức và những người sản xuất nông nghiệp ở hương thôn. Trong thời kỳ phong kiến quá khứ đã để lại cho đời sau những tấm gương khắc khổ nhẫn nại, lao động sản xuất để bảo vệ sự sinh tồn của cuộc sống đói khổ của ông cha ta. Trong kháng chiến không có phản bội tổ quốc, phụng sự cho tổ quốc, tất cả vì nước vì dân, nhiều người đã hi sinh cho Tổ quốc trong công cuộc bảo về và xây dựng đất nước, góp phần vào công cuộc xây dựng CNH,HĐH đất nước.
Đặc biệt truyền thống của các thế hệ người mẹ trong họ đã thành kính thờ phụng tổ tiên thể hiện những anh hùng nội trợ vô danh (không được ghi tên trong gia phả vì thiếu tư liệu) đã đảm đang xây dựng gia đình hạnh phúc: siêng năng sản xuất, khắc khổ tiết kiệm để nuôi dạy con cái ngoan ngoãn, giữ vững thuần phong mỹ tục, lễ giáo gia đình, hòa thuận chiều chồng, hiếu thảo với cha mẹ, thân ái giúp đỡ anh chị em, kính trên nhường dưới, thành kính thờ phụng tổ tiên, thân mật với họ hàng, làng xóm. Đó là thuần phong mĩ tục, truyền thống tốt đẹp về đạo lý cương thường cho con cháu noi theo.
Ngày nay, nhờ Đảng, Bác đã đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người, ăn ngon, mặc đẹp, không phải ăn no, mặc ấm; đất nước từng bước hiện đại theo xu thế phát triển của thế giới. Con cháu vẫn không quên bảo tồn và phát huy những tinh hoa vốn quý của nền văn hóa lâu đời của dân tộc. Trong công đồng xã hội Việt Nam. Con cháu họ Lê ta, được hưởng thụ tinh thần tự lực và chí khí quyết tâm của tổ tiên, đã tiếp cận có hiệu quả, với nền văn minh hiện đại.
Trên mọi lĩnh vực, công, nông, thương, khoa học, quân sự, nhiều gương thành đạt đã tỏ rõ những ý chí kiên cường tự lập và nổ lực phấn đấu trong đời sống và sự nghiệp của mình. Truyền thống này mong được đời đời phát huy, ngày càng rạng rỡ với tổ tông nói riêng, đất nước nói chung!

Từ ngày 1 tháng 7 năm 1992, cố cụ Lê Trần Đức biên soạn, bổ sung lại; từ tháng 1 năm 2010 Trưởng tộc Lê Đình Hiển (đời 6) hiệu chỉnh, biên soạn lại và đưa vào phần Gia phả Việt Nam trên mạng lưu trử cụ thể:

THỂ THỨC BIÊN SOẠN
1. Kể từ các cụ tổ sinh ra 4 chi, từ thế hệ 4 trở về trước, nội dung truy chép theo tư liệu bằng quốc ngữ và biểu tổng hợp tóm tắt bằng chữ Hán do cố trưởng chi thứ 3 Lê Quốc Trân soạn năm 1940 ( trích sao chụp kèm sau).
2. Gia phả cũ chỉ chép những người đã lớn trở lờn, con cái mà mất sớm không chép vào.
3. Thiếu chi tiết về ngày mất, nơi để mộ (vì quá lâu đời và do cải táng tập trung), nhất là thiếu tên họ các cụ bà (ở văn tế cũ thì chỉ khấn chung các vị tổ tỷ mà thôi).

Trong phần này, Việt nam Gia Phả cung cấp một cách nhập liệu theo ý tưởng chính như sau:
1. Bên trái, là cây gia phả nhỏ gồm những Gia Đình gần nhất với gia đình đang soạn
2. Phần giữa, là gia đình đang soạn, và các gia đình anh em xung quanh, gia đình con nằm dưới.
3. Bạn click vào gia đình đang soạn, để nhập thông tin về người và chi tiết từng người trong gia đình
4. Người trong gia đình, là gồm 1 người cha (có họ trùng với họ tộc), và một hoặc nhiều người người vợ.
5. Nếu người con là con gái, thì người chủ gia đình là chàng rể. Và lưu ý là đời này kết thúc tại đây. Bạn không nên ghi thêm những người con trong gia đình này, vì như thế họ của những người con này không còn giống với Họ của họ tộc nữa. Thông tin những người con (cháu ngoại) này, sẽ được ghi vào trong phần mô tả chi tiết của người mẹ.

Nếu có gì khó khăn, xin liên hệ vuzzan@vietnamgiapha.com để được giúp đỡ.

Gia phả
Họ Lê cụ Thủy tổ Lê Đình Định (Đĩnh), húy là Giao, hiệu sinh, chuyên nghiên cứu phong thủy (địa lý) 2 cụ sinh 2 chi:
- Cụ Lê Đình Diệm trưởng, húy Hoàng tức Cai Hợp sinh được 4 trai
- Cụ Lê Đình Căn, thứ

Nay kể 4 chi, con cụ Lê Đình Diệm trở xuống là đời thứ nhất:
- Chi thứ nhất: Cụ Lê Giảng; sinh đồ,
- Chi thứ hai: Cụ Lê Đồng, hiệp quản, mất tích
- Chi thứ ba: Cụ Lê Thành, kỳ lão,
- Chi thứ tư: Cụ Lê Điều, kỳ lão,
Cụ thể chi tiết từng người ở phả hệ- phả đồ

Bốn chi trên hiện có nhà thờ ở thôn Tân Tùng, Xã Đức Tùng- Đức Thọ- Hà Tĩnh, trưởng chi thứ nhất Lê Đình Hiển ở Hà Nội (đời thứ 6). Trưởng chi thứ 2 là Lê Xuân Phương ở Vinh (đời thứ 5). Trưởng chi thứ 3 là Lê Quang Trung ở Hà Nội (đời thứ 6). Trưởng chi thứ 4 là Lê Đắc Quý ở Hà Nội (đời thứ 5).




ĐỊA CHỈ CÁC ANH EM TRONG HỌ

- Lê Tiến, Lê Viện, Lê Tân, Lê Thân, Lê Nhơn… đều ở xóm Tròi, Yên Quả 7, xã Đức Tùng, Đức Thọ, Hà Tĩnh
- Lê Đức Hòa (con Ô. Khoát) ở số 423, nhà B4, khu Quang Trung, Vinh (Nghệ An)
- Lê Xuân Phương (con ô. Duyệt) cán bộ Sở Giao thông về hưu ở Vinh…………….
- Lê Văn Giáp, thầy giáo về hưu ở thị xã Hà Tĩnh, mở cửa hàng đối trướng………...
- Lê Thanh Vân, hưu trí ở phường Cống Mọc? (sau nhà máy Xà phòng), Quận Đống Đa, Hà Nội
- Lê Quốc Hoài cán bộ hưu ở 87 phố Hàng Bạc, Hà Nội
- Lê Quốc Quý cán bộ hưu ở tập thể nhà A1 tầng 4 số 48 phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Lê Quang Trung (con Lê Quốc Lô) ở số 324 phố Bà Triệu quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
- Lê Đình Khả Giáo sư nông lâm, ở số 20 phố Võng Đức, Hà Nội
- Lê Đình Thuyên, cán bộ hưu ở tập thể công ty vận tải hàng hóa ở Đuôi Cá, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Lê Trần Đức lương y ở nhà tập thể A-2, phòng 3 số 8 phố Trần Quốc Toản, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Lê Đức Nhuận về hưu ở 102 phố Trần Hưng Đạo, Cửa Ga, Hà Nội
- Lê Đức Lan về hưu ở 204 phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Lê Đắc Quý, về hưu ở 243b làng Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội
- Lê Đình Ngọc (con Lê Đình Châu) công nhân Viện Quy Hoạch Hà Nội (nhà ở số 80 phố Thuốc Bắc, Hà Nội
- Lê Đình Trác, trưởng phòng tổ chức Trường Đại học Cơ điện Bắc Thái
- Lê Đình Quỳnh cán bộ nhà máy dệt C50 Nam Định.
- Lê Đức Thông (con ô.Đức) ở 023, lô 11 cư xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh, Tp.HCM
- Lê Ngọc Báu ở TK 33 B/1 phố Nguyễn Cảnh Chân, quận I Tp.HCM
- Lê Thị Mỹ Dung (con ô. Đức) ở 927 Phạm Thế Hiển, phường 4, quận 8 Tp.HCM
- Lê Đình Tuấn (con ô. Tài) ở 306 Hoàng Hoa Thấm, phường 5, quận Bình Thạnh, TP. HCM
- Lê Thanh Cần bác sĩ công tác ở Cảng Sài Gòn, đi tàu Viễn dương.

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ LÊ

Kể từ các cụ tổ sinh ra 4 chi họ Lê ta đến nay là 6 đời, khoảng ngót 200 năm, quá trình phát triển của các đời thống kê trong gia phả
Gia Phả HỌ LÊ: Tại Đức Tùng
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HỌ LÊ: Tại Đức Tùng .
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HỌ LÊ: Tại Đức Tùng
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.