GIA

PHẢ

TỘC

Nguyễn
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
XEM LỊCH SỬ VIỆT NAM


Nước Chiêm Thành ngày xưa tên là Hồ Tôn. Bắc giáp Nghệ An, Tây giáp Ai Lao (Lào), Đông giáp biển Thái Bình Dương, Nam giáp Cao Miên ( Campuchia ) ngày nay là tỉnh Biên Hòa.
Từ thời nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành đã bắt đầu đánh quân Chiêm Thành. Đến triều nhà Lý, vua Lý Thánh Tôn cũng đánh đuổi quân Chiên Thành, vua Chiêm là Chế Củ bèn dâng đất ba Châu : ĐỊA LÝ, MA LINH và BỐ CHÍNH. Lúc đó kinh đô Hoa Lư được dời về thành Đại La ( Thăng Long, Hà Nội ngày nay ).
Triều nhà Lý di Hoa dân vào ở từ Hà Tĩnh, Quãng Bình, Bắc Quãng Trị được gọi là huyện MINH LINH.
Tới triều nhà Trần ( 1306 ), nhà vua gã Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân, vua Chiêm bèn hiến đất Thuận Châu, Hóa Châu ( Quãng Trị, Thừa Thiên Huế ) để làm sính lễ.
Triều nhà Trần lại di Hoa dân đến ở đó. Sau đến đời vua Lê Thánh Tôn nhà Hậu Lê ( 1469 ) lại di Hoa dân thêm một lần nữa.
Như vậy, từ thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Hậu Lê đã có 3 lần di dân vào địa phận tỉnh Quãng Trị.
Các vị Thủy Tổ Tiền Khai Khẩn của các làng bước đầu sơ khai, ai khai thác địa phận nào thì có liều trại ở đó, mãi cho đến đời vua Trần Anh Tôn, niên hiệu là Hưng Long ( 1247 – 1306 ) thì triều đình mới xác nhận vị trí, mốc giới của các làng.
Sau nầy con cháu viên tôn, các thừa biên chấp hành lưu chiếu đều biết rõ từng nguồn gốc, từng niên kỷ, từng thời đại để biên chép như sau :


VIỆT NAM – QUÃNG TRỊ

Giờ khắc………….ngày…….tháng..…năm Đinh Mão ( 1987 )

THẠCH HÃN NGUYỄN TỘC GIA PHẢ, NGUYỄN GIA MỤC LỤC, ĐỆ NHỊ PHÁI ĐỆ NHẤT LANG.

Nguyên ở tại làng VĨNH LẠI, tỉnh HẢI HƯNG, BẮC VIỆT.
Trong khi nhà tiền Lê, vua Lê Đại Hành húy là Lê Hoàn đánh đuổi quân Chiêm Thành, cho di Hoa dân chọn đất mà lập nghiệp ở đó ( năm Giáp Dần 1008, niên hiệu Long Đức năm thứ 3 ).
Các vị tiền nhân khai khẩn của làng ta lúc ấy phong cương trước tịch, vị Hàn Giang tước hiệu gọi là làng THẠCH HÃN.
Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Tiền nhân khai sáng, hậu thế kế thừa, nguyên nhơn sanh hồ tổ, tình thâm duy lý, cù lao mỗi niệm ư cù nga. Nghĩa trọng thuộc hào chiêm vọng thường hoài ư hộ ty cố thử, thử hàn đồng đậu quế nhất môn, dai khu diệp dĩ trụ tôn hoài tai.
Thương điếu châu qua, vạn thế hưởng sanh thành nhi kế cựu. chúng tôi thừa tổ ấm kế truyền, thế chi mai hậu thiên như niên kỷ. Bút lễ kinh trần, vô do tường khảo tiên, tiên linh thế cập, hà tự minh trí. Vì vậy con cháu chúng tôi chiếu theo bản Gia Phả của tổ tiên, bổn tộc mục lục.
Từ đời vua Ngọa Triều, niên hiệu Long Đức tên là Lê Long Đĩnh đã gián tiếp sao lại. Ngày nay con cháu tiếp tục chiếu thứ biên chép, tương lai lấy đó để chiêm tiền nhi cố hậu, làm cơ sở nhật tu Gia Phả. Vì cây có cội, nước có nguồn, đời nầy sang đời khác không để mấy gốc của tổ tiên, hiển nhiên để truyền lại cho thế hệ tương lai.


oooooO0Oooooo


SỞ HỮU THỨ TỰ, THỪA DĨ TƯỜNG KÊ VU HẬU.

KÊ :

NGUYỄN TỘC GIA PHẢ, ĐỆ NHỊ PHÁI, ĐỆ NHẤT LANG

- Đệ nhất khai khẩn thủy tổ húy :
NGUYỂN VĂN KIỆN
NGUYỂN VĂN ĐINH - nhị đại lang chi tử tôn.
- Đệ nhị khai khẩn kế thủy tổ :
Khai canh Đề Đốc NGUYỄN VĂN LAO ( con ông KIỆN )
Khai canh NGUYỄN THẾ KHOA ( con ông KIỆN )
Khai canh NGUYỄN VĂN TRỪNG ( con ông ĐINH )
Khai canh NGUYỄN VĂN CHUẨN ( con ông ĐINH )
Từ thủy tổ đến đời thứ 11, mồ mã cũng như tổ tiên đã có tông đồ mục lục gia phả của họ.
Gia Phả tự đường hương hỏa chỉ đời thứ 12 trở xuống cho đến lớp con cháu ngày nay : đời thứ 19.

……..oOo………

Ngày nhật tu phụng sao Gia Phả 24 tháng 11 nắm Bính Dần ( 1986 – 1987 ). Chiếu theo bản nhật tu Gia Phả ngày 26 tháng 06 năm Đinh Tỵ ( 1917 ) đời vua Khải Định năm thứ 2





Gia Phả Nguyễn
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Nguyễn.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Nguyễn
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.