CÁC DÒNG HỌ THÔN ĐẶNG XÁ, XÃ VĂN XÁ, HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
MỞ ĐẦU: .‘’Lịch sử dòng họ là tài sản quý giá về tinh thần cho các thê hệ. Mỗi khi đọc lại gia phả là để ta tưởng nhớ đến những người đã khuất và cũng là để ta chuốt lại sợi dây tình cảm với những người trong dòng tộc.
Vài nét về thôn Đặng Xá
Căn cứ vào thời điểm khởi dựng chùa Khánh Hưng, thôn Đặng
Xá vốn là một làng cổ, được khởi dựng từ trước thời kỳ Bắc Thuộc lần
thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, thời đó được bắt đầu từ năm 43 sau cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng. Khi đó, miền Bắc
nước ta và một phần Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc được gọi là bộ Giao
Chỉ. Cuối thời nhà Hán được đổi thành
Giao Châu.
Vào những năm 679, vùng
Giao Châu thời nhà Đường, được đổi thành An Nam đô hộ phủ và chia làm 12 châu
nhỏ, bao gồm 8 huyện mới đó là: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình
Đạo, Vũ Bình, Các vùng đất Nam Định, Thái Bình và Hà Nam thời đó thuộc Vũ Bình
Đến
thời nhà Đinh ( Mậu Thìn 968), Đinh Tiên Hoàng Đế đặt tên nước là Đại Cồ Việt (
Vùng đất thuộc miền Bắc Việt Nam ngày nay ) vùng đất Kim Bảng Hà Nam ngày nay,
thuộc đạo Đại Hoàng. Đến thời Lý thuộc về lộ Hoàng Giang.
Cuối
đời Trần vào năm Vĩnh
Lạc thứ 6 (1419), Đặng Xá thuộc huyện Cổ Bảng
châu Lỵ Nhân
Thời
vua Lê Thánh Tông (1969 ) Đặng Xá nằm trong huyện Kim Bảng thuộc Thừa tuyên Sơn
Nam, sau lại được đổi thành Trấn Sơn Nam.
Thời Pháp, tỉnh Hà Nam được thành
lập, lúc đó Đặng Xá thuộc cấp xã huyện Kim Bảng và có 2
thôn: Đặng xá, thôn Tranh ( Chanh thôn ) và xóm Đồng Bò.
Từ trước đến nay, Đặng Xá luôn
được coi là trung tâm hành chính, văn hóa xã hội của Xã Văn Xá.
Thôn có Chùa Khánh Hưng, thờ Đại
thánh Pháp Vũ Thạch vương Phật, có Đình thờ Đông Hải Đại Vương
Nguyễn Phục.,. Thôn Đặng Xá còn có 4 miếu. Miếu Thượng ở đầu làng, thờ Thần Linh
Lang Bạch Mã- tức thần Long Đỗ, thành hoàng bảo vệ thành Đại La.Sau này đến đời
nhà Lý được đổi là Kinh thành Thăng Long. Miếu Trung , thờ Đinh Tiên
Hoàng Đế, Miếu Bà ở cuối làng thờ Thái trưởng công chúa Ngọc Nương, và
Hoàng hậu vua Đinh là Dương Thị Nguyệt
và miếu Vị Ba thờ Đông Hải Đoàn Đại Vương.
Vài nét về các tộc họ thôn Đặng Xá và dòng họ Chu
Đặng xá có 8 họ tộc chính bao gồm: Bùi, Chu, Phạm, Nguyễn, Trần, Lê, Đặng và họ Đào. Trong đó dòng họ Chu đông nhất với 3 chi tộc lớn. Sau Họ Chu là dòng họ Phạm, tiếp đến là dòng họ Nguyễn và họ Lê. Dòng họ ít nhất là họ Đặng và họ Đào, hiện chỉ có 01 gia đình).
Tộc họ Chu ( Chu dóng chuồng hay còn gọi là Chu bằng vai ) là tộc họ có từ lâu đời nhất. Cụ tổ lâu đời nhất là cụ Trại. Đời sau cụ Trại còn có 6 chi tộc gồm: Chi tộc cụ cả Quyền, chi tộc cụ Tiển, chi tộc cụ Pháp, chi tộc bố cụ Hiệp, chi tộc bố cụ Sơn và chi tộc cụ Cò Dãi..
Riêng chi tộc cụ Cò Dãi đã di cư đến Thanh Hóa, không còn ai tại quê. Sau đó đến tộc họ Chu phảy vai và cuối cùng là Chu Kim ( Chu Kim vốn là họ khác đến làm con nuôi họ Chu nên mới đặt là Chu Kim - Kim tức là Kim Bảng.
Chi tộc họ Chu Duy Định và Chu Duy Năng
Chi tộc họ Chu Duy là một trong 2 tộc họ Chu lâu đời và đông nhất ở Đặng xá. Họ tộc thời xa xưa, người đời sau không còn nhớ tên ai. Bây giờ các thế hệ cháu chắt... chỉ biết Cụ tổ
là cụ Cả Quyền. Cụ Quyền sinh ra các cụ Cựu Anh và cụ Cựu Liền. Cụ Cựu Liền sinh ra các cụ: Cụ Cả, cụ Định và cụ Năng. của 2 chi tộc họ Chu Duy Định và Chu Duy Năng được xác định là cụ : Chu du giỗ chung của 2 chi tộc là ngày 4/7 âm lịch tháng 6 âm lịch.
( Thông tin do các cháu Chu đức Thận và chu văn Vẫy – cháu trưởng tộc cung cấp và do ông Chu Đức Soàn biên soạn)
Sau đây là danh sách các con, cháu, chắt, chít... của 2 chi tộc Chu duy.
( Mời đọc nội dung ở phía dưới do lỗi cách đoạn nhiều )
I/ Chi Ông : Chu Duy Định, bà Phạm thị Cọ ( Ngày giỗ 4/7 âm)
|
1) Chu duy Tịch
- Chu thị Kiểu |
1) Chu duy Vịnh (mất )
- Phạm thị The |
1)Chu thị Vinh |
2)Chu văn Vẫy |
3)Chu văn Vũng |
4) Chu thị Dinh |
5) Chu văn Dĩnh |
2)Chu thị Với ( ) |
|
3)Chu thị Én ( ) |
( Lấy chồng ở thôn Điền xá |
2) Chu Duy Chấn
- Nguyễn thị Ngân
|
1) Chu duy Phượng ( mất năm...)
- Trần thị Cưu
|
1) Chu văn Phong
Đi bộ đội chống Mỹ, hy sinh năm |
2)Chu Xuân Diu .( 1954 )
Chủ tịch Xã (khóa 2007-2011)
Vợ: Chu thị Nếp (1954) |
2)Chu duy Xạ ( mất )
- Nguyễn thị Mẫn |
1) Chu thi Nhàn |
Chu văn Thành (1956 ) |
Chu thị Lương ( 1959) |
2)Chu văn Trung ( ) |
3) Chu duy Mạ (mất 1946) |
|
4)Chu thị Châu ( mất năm )
Chồng là: Phạm văn Ẩm
(hay gọi là Măng mât năm ) |
1) Phạm văn Chính |
2) Phạm văn Toàn |
3) Phạm văn Doan |
3) Chu duy Thảo
- Chu thị Phái
|
1) Chu duy Bảo (mất năm1992)
Vợ là: Chu thị Trình
( Đang sống ở quê Đặng xá)
|
1) Chu văn Hồi |
2) Chu thị Sơn |
3) Chu thị Xuân (Đã mất) |
4) chu thị Ngà |
5)Chu văn Hải |
6) Chu văn Tiến.( mất năm) |
2)Chu duy Lượng (đã mất) |
|
3) Chu duy Thắng ( đã mất ) |
|
4)Chu đức Thận. (1940 )
Vợ là: Phạm thị Yên
( Đang sống ở quê ) |
1) Chu mạnh Tường (1969 ) |
2) Chu thị Tâm (1971 ) |
3) Chu đức Tuấn |
4) Chu đức Tú |
5) Chu thị Toan ( đã mất ) |
6) Chu thị Thịnh (1982) |
4)Chu đìnhTư – tức Cận . |
(Đi bộ đội chống Mỹ, hy sinh năm 1970 ) |
5) Chu duy Yên (1938) - Mã não (con bà hai) |
|
4) Chu thị Liên |
( tức bà Hương Ba) |
|
5) Bà Biểu Huynh |
- Chu thị...(?) |
(gọi theo tên chồng là chị Đằng) |
6) Chu thị Hiền (Hương Hoành) |
Lấy chồng ở Quế, có con trai tên là Đương |
|
7) Chu thị Lễ |
|
|
II/ Chi Ông: Chu Duy Năng . còn có tên gọi là Lới hoặc Lý ( mất ngày 16/5 âm năm 1937) (Thời Pháp đã làm Lý trưởng )
- Bà : Dương thị Tình. (mất ngày 4 tết năm... )
|
1) Chu duy Cứ
(Thời Pháp đã làm Trương tuần) |
1) Chu duy Hoạn (cu Hoạn đã mất) |
Chu thị Ngoan |
2) Chu duy Xuyến (đã mất ) |
|
3) Chu thị Gái.
(Đang sống ở quê)
Chồng là Pham văn Tư (tư Bút). mất năm 2004 |
Phạm văn Thẫm
Vợ là Chu Thị Hạnh |
Phạm văn Trung
Vợ là::Chu Thị Sen |
Phạm văn Nghê
Vợ là: |
1. Phạm Thị Đoàn
2. Phạm Thị Đán |
4)Chu văn Chàng (mất 1954) |
|
2) Chu thị Hễn |
|
|
3) - Chu thị Thoa
( ngày giỗ 30 tết)
- Pham văn Teo.
Phần mộ tại nghĩa trang thôn Đặng |
1) Pham thị Xuyên
|
|
|
|
4) Chu duy Phàn
( mất 3/5 âm - năm 1946)
Vợ là: Phạm thị Tại.
( mất 2/6 âm năm 1954 )
Hiện phần mộ tại nghĩa trang thôn Đặng ( sau miếu thượng )
|
1)Chu thị Luân ( tức Phạn)
(Hiện đang ở Bảo lộc Lâm đồng với các con)
Chồng là: nguyễn văn Thao. (Mất năm 1964).
|
1) Ng: văn Minh (1956)
Vợ: Vân |
2) Nguyễn thị Lan (1957)
Chồng: Cường |
3) Nguyễn thị Xuân (1959)
Chồng: Nhuận |
4) Ng: văn Thắng
Vợ |
2)Chu văn Nhạ (mất khi còn bé) |
|
3)Chu thị Trại (mất khi con bé) |
|
4)Chu thị Đường
Chồng: Lê đình Cẩm, (Duy minh, Duy tiên) |
1) Lê thị Ngần (1959)
Chồng::Tào Mạnh Dũng |
2) Lê thị Nga Chồng tên là Hòa |
5)Chu đức Hinh (sinh năm 1940 )
Vợ: Trần thị Dậu (sinh năm 1945)
(Hiện đang sống tại Hà nội) |
1) Chu lan Anh (1969)
Chồng:Tống bá Luân (1965) |
2)Chu đức Dũng (1971)
Vợ: Ng: Thị Minh Hạnh |
3) Chu Thu Hà (1974 )
Chồng: Đỗ Tuấn Việt |
6)Chu Đức Thái (sinh năm 1941)
Vợ: Vũ Thị Dung
(Hiện đang sống tại Vệ An Bắc Ninh) |
1) Chu đức Thắng (
Vợ: |
2) Chu Bảo Sơn
Vợ: |
3) Chu Khánh Long (1978)
|
5) Chu Kim Ninh
(Ông ba Toàn)
mất 22/6 âm/1985
Hiện phần mộ tại ngĩa trang thôn Đặng
Vợ: Pham Thị Nhân (15/1/61-29/11 âm)
Mộ phần tại Bất bạt Hà tây |
1)Chu Thị Ái (mất khi con nhỏ ) |
|
2) Chu Đức Soàn (12/1947)
Vợ: Nguyễn Thị Thanh Hà (1957)
(Đang sống tại khu nam Thành Công Hà Nội). |
1)Chu Thanh Đức (11/1981)
Vợ là Lê Hông Minh
|
2)Chu Dũng (12/1983 )
( thường gọi là Đạt) |
6) Chu Duy Hoàn
( Tư Phượi) |
( mất ngày 15/2 âm lịch ) |
|
|
|
|
|
|
Cháu trưởng họ tộc cho cả 2 chi là Chu Văn Vẫy, là con ông Chu Duy Vịnh
Cháu trưởng tộc chi ông Chu Duy Năng là: Chu Đức Dũng, là con ông Chu Đức Hinh
/
Người biên soạn gia phả là Nhà báo : Chu Đức Soàn, nguyên công tác tại Đài Phát thanh Truyền hình Hà Nội./