GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
MINH
MẠNG
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
Đời thứ: 3
Người trong gia đình
Tên NGUYỄN PHÚC LAN
Tên thường
Tên Tự
Là con thứ 2
Ngày sinh 13/8/1601, 16 tháng 7 Tân s̗
Thụy hiệu Thần Tông Hiêu Chiếu Hoàng Đế  
Hưởng thọ: 48  
Ngày mất 19/3/1648  
Nơi an táng xã An Bằng (Hương Trà, Thừa Thiên)  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

         Thần Tông Hiếu Chiểu Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Lan, con thứ hai của đức Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai. Ngài sinh ngày 16 tháng 7 năm Tân sửu (13-8-1601).

         Lúc đầu, ngài được phong chức Phó tướng Nhân Lộc Hầu. Năm Tân mùi (1631) , Hoàng trưởng tử Kỳ mất, ngài được lập Thế tử. Năm Ất hợi (1635), đức Hy Tông băng, vâng lời di chúc, các quan tôn ngài làm "Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh kiêm Tổng Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Nhân Quận Công". Lúc ấy ngài 35 tuổi. Thời bấy giờ gọi là Chúa Thượng.

        Qua năm sau, ngài cho dời phủ từ làng Phước Yên (Quảng Điền, Thửa Thiên) qua làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Kim Long rộng rãi,cảnh trí xinh đẹp, phủ Chúa và nhà quan lại còn lan ra các làng chung quanh. Kim Long đã mang lại nhiều lợi ích cho nền thương mãi trong thời ngài. Các thuyền buôn từ Hội An, Trung Hoa ghé Thuận An đi dọc theo sông Hương lên Huế. Nhờ đó mà phẩm vật của người Âu và Trung Hoa (tơ sống, thuốc Bắc, bút chỉ v.v...) đều được mang bán tại Huế. Khách phương xa ghé đến Kim Long không khỏi ngạc nhiên khí thấy cảnh tượng huy hoàng của phủ Chúa và các nhà quan lại. Mỗi khi ngài ngự đi đâu đều có hơn hai nghìn thị vệ theo hầu, tiền hô hậu ủng, cờ xi rợp trời, oai vệ khác thường.

        Ngài là người khoan hòa, nhân ái nhưng một cuộc mưu phản xảy ra làm ngài vô cùng đau lòng. Nguyên Hoàng tử thứ ba, em của ngài, tên là Anh, lúc đức Hy Tông còn sống, trấn thủ ở Quảng Nam. Khi nghe tin cha mất, anh nối nghiệp, liền kéo quân ra Đà Nẵng, định tiến đánh cướp ngôi Chúa. Ngài cho mời Nguyễn Phúc Khê vào bàn, khóc nói rằng : "Chẳng lẽ vì quyền lợi riêng tư một cá nhân mà gây chinh chiến để khổ sinh linh, hay hơnlà cháu nhường ngôi Chúa để tránh cảnh huynh đệ tương tàn." Ông khê không chịu, xin ngài đặt phép nước lân tình nhà rồi cùng Nguyễn Phúc Yên kéo quân vào đánh, bắt được Hoàng tử anh, lấy nghĩa "Anh em là tình riên, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.

        Hai chiến công oanh liệt trong thời ngài là việc đánh tan tàu của người Hà Lan và đại thắng quân Trịnh. Người Hà Lan mà dân chúng thường gọi là giặc Ô Lan, vốn tự phụ sức mạnh của hải quân. Năm Giáp thân (1644) ba chiếc tàu Hà Lan tiến vào cửa Eo, bi ghe chiến của ta đổ ra vây đánh dưới sự đều khiển của Thế tử Dũng Lễ Hầu (sau này là Chúa Hiền). Chiếc tàu lớn bị đạp gãy bánh lái, phá hủy cột buồm làm viên thuyền trưởng phải tự đốt mà chết. Hai chiếc tàu kia chạy trốn, mộ chiếc va vào đá, tan vỡ.

        Ngài tuy nắm sự nghiệp lớn lao của ông cha, nhưng cũng vướng mắc lưới tình suýt lung lau cả cơ nghiệp. Nguyên Tống thị, vợ của anh trưởng ngài, tuy đã ba con, nhưng còn trẻ đẹp, ăn nói mặn mà và là người lẳng lơ. (Tống thị lả con của Chưởng Cơ Tống Phúc Thông, lúc Hoàng tử Kỳ mất, Tống Phúc Thông đem gia quyến ra Bắc, Tống thị vẫn ở lại miền Nam). Từ năm Kỷ mão (1659), ngài say mê Tống thị đến mù quáng, nhờ đó, thị thao túng, nhận hối lộ, bót lột của dân khiến gia tài của thị được xem là nhất, nhì trong nước. Ngài định xây cung thất để sống với thị lúc tuổi già. Triều thần can gián không được. Sau nhờ quan Nội tán Viên Hiền Hầu họ Phạm, dùng lời lẽ đanh thép để can ngăn, ngài mới bỏ Tống thị, lấy tiền xây cất cung điện chu cập cho bần dân, chỉnh đốn binh bị, Tống thị mật sai người ra Bắc, dân thư cho Trịnh Tráng xin cất quân vào Nam, thị sẽ đem gia tài nuôi quân. Việc này gây một cuộc can qua trọng đại giữa Nam va Bắc vao năm Mậu tý (1648).

        Do thư của Tống thị, Trịnh Tráng sai Đô đốc Lê Văn Hiển đem quân thủy bộ vào đánh. Ban đầu, quân Trịnh đánh thắng, chiếm được Lũy Thầy. Cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân Trịnh đánh mãi không tiến lên được. Sau đại binh ngài đến, lật ngược thế cơ, đánh quân Trịnh mộ trận tan tành, đuổi thẳng đến Linh Giang (1).

        Khi chiến thắng trở về, qua phá Tam Giang, ngày 26 tháng 2 năm Mậu tý (19-3-1646) ngài mất. Ngài ở ngôi được 13 năm thọ 48 tuổi.
 

*
* *

        Đức Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ ba trị vì ở miền Nam.

        Ngài là một vị Chúa khoan hòa, quân ái. Về mặt tình cảm tuy có điều sai trái nhưng cuối cùng đã biết nghe lời nói phải, đặt quyền lợi đất nước trên tình riêng tư. Nhờ vậy mà quân, dân một lòng, dù quân Trịnh muốn dòm ngó cũng không làm gì nổi.

        Ngài thuộc đời thứ tư của họ Nguyễn Phúc và đứng đầu hệ IV. Vì các Hoàng tử của ngài không có con nên hệ IV không có phòng nào. (Thế tử nối ngôi Chúa đứng đầu hệ V

- LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

        Lăng ngài táng tại xã An Bằng (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long đặ tên lăng là Trường Diên. Ngài được thờ ở an thứ nhất bên  hữu trong Thái Miếu.

        Thế tử nối ngôi tôn thụy: "Đại Nguyên Soái Thống Suất Thuận Hóa - Quảng Nam Đẳng Xứ Chưởng Quốc Chinh Uy Đoán Thần Vũ Nhân Chiêu Vương."

        Năm Giáp tý (1744). Vũ Vương truy tôn: "Thần Tổ Thừa Cơ Toàn Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu Vương".

        Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: " Thần Tông Thừa Cơ Toàn Thống Quân Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Vũ Hiếu Chiêu Đế". Miếu hiệu là Thần Tông.      


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên ĐOÀN THỊ
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh
Thụy hiệu Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Hậu  
Ngày mất 17 tháng 6 năm Tân sử  
Nơi an táng làng Chiêm Sơn, ở gò Cốc Hùng, tỉnh Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diên.  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

        Bà họ Đoàn, con gái thứ ba của Thạch Quận công Đoàn Công Nhạn và phu nhân họ Vũ. Bà người huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam.

        Bà tính linh mẫn, lúc 16 tuổi, nhân đên trăng đi hái dâu ở bãi sông, ngắm trăng mà hát, gặp lúc đức Thần Tông (còn là Thế tử, đi theo hầu đức Hy Tông vào tuần tra Quảng Nam) cũng thừa đêm trăng xuống thuyền đi câu các, nghe hát rằng: "Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng, Thiếp thương phận thiếp má hồn nắng mưa." Thế tử lấy làm lạ, sai người tìm hỏi, biết là con gái họ Đoàn, bèn cho hầu nơi tiềm để.

        Bà người mẫn tuệ, hiền thục nên được sủng ái. Bà sinh được 1 con trai, sau này là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế. Bà mất ngày 17 tháng 6 năm Tân sửu (12-7-1661). Lăng táng tại làng Chiêm Sơn, ở gò Cốc Hùng, tỉnh Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diên.

        Đời vua Vũ Vương, bà được truy tôn : "Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ Phi", sau thêm hai chữ Mẫn Duệ.

        Vua Gia Long truy tôn: "Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu". Văn sách lược ghi như sau: Kính nghĩ Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Đoan Huệ Phi, lễ nghi, kính trọng chồng, trinh thục, đúng khuôn phép, hợp đức lớn của quẻ khôn, mở đầu cho sự giáo hóa trong chốn cung đình, sớm kết điềm lành, tạo phúc lâu dài cho xã tắc thành tựu đời đời. Nay cậy nhờ linh thiêng mà tạo được cơ đồ bền vững. Kính dâng kim sách tôn hiệu là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu.

        Bà được phối thờ với đức Thần Tông ở án thứ nhất bên hữu trong Thái Miếu. 

Các anh em, dâu rể:
   NGUYỄN PHÚC KỲ
   NGUYỄN PHÚC ANH
   NGUYỄN PHÚC TRUNG
   NGUYỄN PHÚC AN
   NGUYỄN PHÚC VĨNH
   NGUYỄN PHÚC LỘC
   NGUYỄN PHÚC TÚ
   NGUYỄN PHÚC THIỆU
   NGUYỄN PHÚC VINH
   NGUYỄN PHÚC ĐÔN
   NGỌC LIÊN
   NGỌC VÂN
   NGỌC KHOA
   NGỌC ĐĨNH
Con cái:
       NGUYỄN PHÚC VŨ
       NGUYỄN PHÚC TẦN
       NGUYỄN PHÚC QUỲNH
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.