GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
GIA
LONG-Cà
Mau
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: ĐỨCHƯNGTỔ HIẾUKHANGHOÀNG ĐẾ Nguyễn Phúc Côn-hệ
Đời thứ: 25
Người trong gia đình
Tên ĐỨC THẾ TỔ CAO HOÀNG ĐẾ Nguyễn Phúc Ánh(1762-1820)
Tên thường
Tên Tự
Ngày sinh
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

11.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

        Thế Tổ Cao Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Anh ngoài ra còn có tên Chủng và Noãn (1), là con thứ ba của đức Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế Nguyễn Phúc Côn và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Hoàn. Ngài sinh ngày 15 tháng giêng năm nhâm ngọ (8-2-1762).

        11.1.1. Thuở thiếu thời

        Khi đức Hưng Tổ mất ngài mới bốn tuổi, đức Duệ Tông rất yêu thương đem nuôi ở trong cung. Lúc 13 tuổi gặp loạn năm Giáp ngọ (1774), quân Trịnh tấn công Thuận Hóa, ngài theo đức Duệ Tông vào Quảng Nam, năm sau đến Gia Định. Đức Duệ Tông giao cho ngài giữ chức Chưởng sứ, mỗi khi có việc quân thường được mời bàn tính và các tướng rất bái phục.

        Năm Đinh dậu (1777) Sài Côn (Sài Gòn) bị quân Tây Sơn chiếm, đức Duệ Tông phải lánh mình vào Long Xuyên, sau đó đức Duệ Tông và Tân chính vương (Nguyễn Phúc Dương) đều bị hại, chỉ riêng ngài trốn thoát lánh mình ở đảo Thổ châu, rồi trở về tụ tập các tướng sĩ khởi binh ở Long Xuyên đánh lấy Sài Côn. Các tướng tôn ngài làm Đại nguyên súy Nhiếp chính quốc, lúc ấy ngài 17 tuổi.

        11.1.2 Thời kỳ xưng vương

        Năm Canh tý (1780), tướng sĩ tôn ngài lên ngôi vương ở Sài Côn, dùng ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu. Từ năm Nhâm dần (1782) đến năm Bính Thìn (1786) quân Tây Sơn nhiều phen đánh phá Gia Định cố tâm hại cho được ngài. Ngài thất trận nhiều lần, có lúc bị vây ở Côn Lôn (2), có lúc lánh mình ra Phú Quốc rồi qua Xiêm đến hai lần phải gởi Hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc (3) sang Pháp cầu viện (4).

        Đến năm Đinh mùi (1787) ngài trở về Long Xuyên, các tướng giỏi và nghĩa quân theo về rất đông nên thế lực mạnh dần. Tháng 8 năm Mậu thân (1788) lấy thành Gia Định, năm Canh tuất (1790) chiếm lại Bình Thuận.

        Năm Nhâm tý (1792) ngài tự thân đi đánh Qui Nhơn nhưng cũng phông thành công. Từ đấy hằng năm cứ đến mùa gió nam ngài cho quân tiến ra đánh các tỉnh miền Trung, khi gió bấc nổi lên lại rút quân về Gia Định (5). năm Kỷ mùi (1799) ngài đánh Qui Nhơn lần thứ ba chiếm được thành đổi tên là Bình Định, giao cho Vũ Tính và Ngô Tùng Chu giữ. Bình Định ở vị trí lẻ loi khó tiếp viện, nên mùa thu năm đó quân Tây Sơn vây thành và chận đường tiếp viện phía nam. Nhờ Vũ Tính giỏi cố thủ nên thành không bị mất. Năm Canh thân (1800) ngàu tự thân đi cứu viện đánh nhau nhiều phen với quân Tây Sơn nhưng không giải được vây. Năm Tân dậu (1801) nghe theo lời khuyên của các tướng và nhất là lời tâu của Vũ tính (6), qua mùa hạ ngài theo đường thủy dẫn quân đánh Thuận Hóa. Ngày mồng một tháng 5 năm Tân dậu (1801) tiến quân vào cửa Tư Hiền, ngày mồng hai tiến đến Trường hà, ngày mồng ba (2-6-1801) thu phục lại Kinh đô cũ. Xa giá tiến vào Kinh thành, ngài cho thu ấn tín, niêm phong kho tàng của Tây Sơn và an định dân chúng.

        Từ ngày giữ chức Đại nguyên súy đến lúc này trải qua 25 năm, ngài được 40 tuổi, nhiều phen vào sinh ra tử mới thu phục Kinh đô.

        11.1.3 Thời kỳ xưng đế

        Đến tháng tư năm Nhâm tuất (1802) ngài cho sửa chữa Hoàng thành, qua ngày mồng một tháng 5 chơ lập đàn ở xã An Ninh (nay là Kim Long, Hương Trà, Thừa Thiên) hiệp tế trời đất về việc đặt niên hiệu, hôm sau ngày mồng hai tháng 5 (1-6-1802) vua ngự ở điện nhận lễ triều hạ, đặt niên hiệu Gia Long, ban lệnh đại xa khắp nước. Sau đó cho dựng Thái miếu ở bên trái Hoàng thành.

        Qua tháng 6 ngày đưa quân ra Bắc tiểu trừ quân địch. Đến ngày 21 tháng 6 xa giá tiến vào Thăng Long thực hiện việc thống nhất sơn hà (7). Sau đó ngài ban dụ cho các cựu thần nhà Lê cùng kẻ sĩ Bắc Hà đến triều kiến, tùy theo tài năng mà bổ dụng. Ngài còn chu cấp cho những người trung nghĩa ở miền Bắc đã bỏ mình. Ngài đến viếng miếu thờ vua Lê Thái Tổ, sắc phong cho con cháu nhà Lê và họ Trịnh, cấp cho tự điền và mộ phu để lo việc thờ tự tổ tiên. Đến tháng 10 ngài trở về Thanh Hóa yết kiến lăng miếu ở Thiên Tôn (8) ngày 26 trở về Kinh bái yết Thái miếu.

        Tháng 11 năm Nhâm tuất (1802) ngài làm lễ tế trời đất, yết Thái miếu hiến phu và xử trị vua quan Tây Sơn (9).

        Tháng giêng năm Giáp tý (1804) ngài làm lễ nhận tuyên phong của nhà Thanh, qua tháng 2 đổi quốc hiệu là Việt Nam và mãi đến năm Bính dần (1806) ngài mới làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở điện Thái Hòa.

        Cuối đời Tây Sơn chính sự thối nát, phong tục hủy hoại nên việc cai trị rất khó khăn, mọi việc trong nước đều được ngài sắp đặt từ đầu. Ngài chia nước thành 23 trấn 4 dinh, trấn lại chia thành phủ, huyện, châu và xã. Trong triều thì được phân thành 6 bộ : Lại, Hộ, Binh, Hình, Công, Lễ, lại đặt Đô sát viện để lo việc can gián vua và đàn hặc các quan.

        Về việc binh ngài cho giảm bớt quân, đặt phép tuyển chọn quân ở các dinh trấn, cho quân phòng thủ những nơi hiểm yếu trong nước. Về tài chánh thì đặt lại các loại thuế, thể thức miễn giảm thuế. Ngoài ra cho sửa lại hệ thống giao thông, đắp đê điều phòng ngừa thiên tai. Để bài trừ những tệ đoan xã hội ngài cho đặt ra những pháp luật nghiêm minh, sai Nguyễn Văn Thành soạn ra bộ luật gồm 22 quyển 398 điều căn cứ theo luật Hồng Đức va luật nhà Thanh.

        Tuy nhờ vũ công mà lấy lại cơ nghiệp, nhưng ngài rõ việc giữ nước cần phải có những quan văn giỏi, cho nên rất chú trọng đến việc học hành. Ngài cho dựng Văn miếu thờ đức Khổng Tử tại Kinh đô và các dinh Trấn, lại đặt Quốc tử giám, mở khoa thi đào tạo kén chọn nhân tài, soạn quốc sử và sách địa dư, sai soạn bộ Cương Mục tiền biên, sai Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định nghiên cứu các vùng trong nước từ Lạn Sơn đến Hà Tiên về địa thế, phong tục, thổ sản... để soạn bộ Nhật Thống Địa Dư chí gồm 10 quyển, lại sai tìm những sách sủ đời trước để sửa chữa và soạn quốc sử.

        Với tổ tiên ngài lo sửa lại các lăng tẩm (10), đem về Kinh an táng những người thân trong họ đã bỏ mình vì nước, với họ tộc ngài giao cho Phúc Logn trông coi và dụ rằng : "Xưa nay các bậc đế vương đều lấy sự thuận hòa và hậu đãi người trong gia tộc làm trông, nhưng phải có phép tắc ràng buộc mới giữ vẹn được tình thân và cùng chung hưởng phú quý. Trước đây khi vận nước điêu linh các thân tộc phải chịu nhiều nỗi cay đắng. nay ta nhờ ân trạch của liệt Thánh lấy lại nin sông, muốn thân tộc giữ phép tắc để cùng hưởng phúc chung, nhưng gần đây nghe nói có kẻ chiếm đoạt nhà đất của dân, có kẻ say sưa dọa nạt dân, làm nhiều điều phi pháp thực là đáng ghét. Việc trị nước trước hết phải tề gia, xem như họ hàng Tây Sơn cậy thế hung hãn khiến mọi người đều ta thán mà đến bại vọng, gương ấy trước mắt. Nay nên họp lại mà răn dạy không được kiêu ngạo ngang ngược mà mắc tội. Pháp luật thi hành từ gần trước, phải thận trọng".

        Việc giao thiệp với các nước ngơài ngài lấy chủ trương hòa làm chính. Sau khi thống nhất, ngài cho người sang cầu phong ở Trung Hoa và chịu việc triều cống. Với Xiêm La thì cho giảng hòa để đưa Nặc Ông Chân về cai trị Chân Lạp. Với Tây phương và nhất là người Pháp, tuy có nhiều người giúp đỡ ngài trong lúc còn trong cảnh gian truân và vẫn còn nhận chức tại triểu đình, ngài tránh không muốn cho họ xâm lấn vào quyền hạn của mình. Ngài vẫn để cho tàu của Pháp ghé bến Đà Nẵng để buôn bán. Nhờ sự ngoại giao khéo léo và không biệt đãi một nước nào nên rất được lòng các lân bang và các nước Tây phương.

        11.1.4 Thời kỳ cuối đời

        Năm Giáp tuất (1814) ngài cho xây lăng Thiên Thụ ở làng Định Môn (Hương Thủy, Thừa Thiên). Năm Bính tý (1816) ngài được 55 tuổi cho ban dụ về việc lập Thái Tử và cho lập Hoàng tử thứ tư Nguyễn Phúc Đảm làm Thái Tử, chế áo mũ và ban kim sách, kim bửu. ngày 11 tháng chạp năm Kỷ mão (1819) ngài đau nặng cho triệu Thái tử, các thân công cùng đại thần vào nhận di chiếu. Ngày 19 tháng chạp (3-2-1820) giờ Tị ngài băng thọ 58 tuổi.

*
* *

        Ngài là người khôn ngoan có tài trí, rất giỏi việc binh, mang đức tính của người khai sán cơ nghiệp. Trong 25 năm trời chống nhau với địch, phiêu giạt chân trời góc biển, biết bao phen hoạn nạn vẫn không làm nản lòng, một niềm lo khôi phục cơ nghiệp của liệt thánh.

        Ngài biết chọn người để dùng, đối đãi với tướng sĩ một lòng chân thành khiến hào kiệt các nơi quy về và một lòng giúp đỡ, ngài biết khích lệ các tướng sĩ nên có những người hy sinh trong việc khôi phục cơ nghiệp (11). Ngay những người Tây phương tuy cũng vì quyền lợi riêng của họ, nhưng hết lòng phò tá, nhu cha Bá Đa Lộc (12) quá tin thân để ngài gởi gắm con côi, cha lại còn bỏ tiền ra mua khí giới cùng tàu thuyền đẻ giúp việc khôi phục. Người trong nước một lòng mong ngóng, trông ngài thắng lợi để có cuộc sống thanh bình.

        Ngài là người có óc tiến bộ, biết tổ chức quân đội theo Tây phương, xây Kinh thành theo những kiến trúc mới, đổi mới việc truyền giáo của các giáo sĩ, ngài đã từng nêu ý kiến với giám mục Bá Đa Lộc là cần có sự kết hợp giữa Thiên chúa giáo và phong tục cổ truyền của dân tôc ta để tránh sự va chạm. Trong thời ngài Phật giáo lại được chấn hưng. Sau cơn tàn phá của binh lửa, ngài cho trùng tu rất nhiều chùa chiền trong nước.

        Ngài một lòng nghĩ đến tổ tiên, ngay trong những lúc chưa an định đã lập miếu thờ ở Gia Định, rồi sau đó dựng Thái miếu, Triệu miếu khi lấy lại được Kinh đô. Đối với mẹ, ngài rất chí hiếu trong những lúc hoạn nạn vẫn muôn vàn lo lắng. Với vợ thật chí tình, chẳng bao giờ quên được những lúc cùng trải bao gian khổ và vì thế đã đưa Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu từ bậc Phi tiến đến Vương Hậu rồi Hoàng Hậu. Ngài một lòng yêu thương con cháu nhưng rất nghiêm khắc, như rất thương Hoàng Tử Cảnh vì có nhiều công trong buổi dựng nước, mến Thiệu Hóa quận vương vì tính hiền từ thận trọng, khen thưởng Thọ Xuân vương vì hiếu học nhưng rất quở trách Định Viễn quận vương lúc ham chơi. Ngoài ra ngài cho thu thập các gia phả liên quan đến dòng họ, vì vậy các cho họ Nguyễn khắp nơi gởi gia phả về nhận họ hàng. Các ngọc phả được dâng lên như "Hoàng Triều tông Đồ", "Hoàng Gia Phả Hệ", "Hoàng Triều Ngọc Phả" v.v...

        Người ta thường bảo ngài khắc nghiệt đối với công thần, đặt luật lệ với dân quá hà khắc, nhưng thử hỏi trong giai đoạn trung hưng lòng người ly tán, muốn lập kỷ cương, xếp việc cai trị mang lại an vui ấm no cho dân, nếu phép tắc không rõ ràng, thưởng phạt không nghiêm minh thì làm sao giữ được nước. Ngài đã nhìn xa thấy rộng khi lập Hoàng tử thứ tư lên kế vị, vì hiểu việc dựng nước đã khó nhưng việc giữ nước lại càng khó. Bởi thế không những ngài khôi phịc được nghiệp cũ, thống nhất đất nước mà còn sửa sang được mọi việc khiến nước ta trở thành một cường quốc trong vùng vào thời bấy giờ. Công nghiệp của ngài quả thật lớn lao.

11.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

        Tháng 3 năm Canh thìn (1820), Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế dâng tông thụy là Thế Tổ Khai Thiên Hoằng Đạo Lập Kỷ Thùy Thống Thần Văn Thánh Vũ Tuấn Đức Long Công Chí Nhân Đại hiếu Cao Hoàng Đế. Qua tháng 4 an táng ngài ở lăng Thiên Thụ.

        Năm Nhâm ngọ (1822) vua Minh Mệnh cho rước thần chủ về thờ ở điện Hoàng Nhân; dựng Thế miếu và thờ ngài ở gian chính giữa.

        Ngoài ra ngài còn được thờ ở điện Minh Thành tại lăng Thiên Thụ, điện Phụng Tiên ở trong cung.

11.3 - GIA ĐÌNH

    11.3.1. Hậu và phi

       11.3.1.1 Tống Thị Lan
                    (Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu)

        Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu húy Tống Thị Lan, tự là Liên, người quê Tống Sơn, Thanh Hóa, là con gái thứ ba của Qui Quốc Công Tống Phúc Khuông, mẹ họ Lê. Bà sinh ngày 25 tháng 12 năm Tân tị (19-1-1762).

        Khi có biến năm Giáp gnọ (1774), bà theo cha vào Nam đến ở Gia Định. Năm Mậu tuất (1778) bà 18 tuổi, được tiến cung rồi tấn phong làm Nguyên Phi. Bà thận trọng lễ phép, cư xử đúng theo lễ nghi nên Thế Tổ rất sủng ái.

        Năm Quí mão (1783) quân Tây Sơn đánh Gia Định, Thế Tổ phải lánh mình ra Phú Quốc, người Xiêm đem thuyền đến đón. Trước khi sang Xiêm, Thế Tổ cho Hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện. Ngài lại đem ra một dật vàng giao cho bà một nửa mà bảo rằng : "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây. Phi ở lại phụng thờ quốc mẫu (12), chưa biết sau này sẽ gặp nhau ở đâu và lúc nào, Phi cất vàng này làm của tin (13)".

        Năm Mậu thân (1788) khi Thế Tổ lấy lại Gia Định, cho người đến Phú Quốc đón bà. Từ đấy mỗi lần Thế Tổ thân chính bà đều đi theo.

        Năm Bính thìn (1796) bà được lập làm Vương Hậu. Đến năm Bính dần (1806) được lập làm Hoàng Hậu.

        Giờ tuất ngày 3 tháng 2 năm Giáp tuất (22-2-1814) bà mất thọ 54 tuổi. Ngày 18 làm lễ thành phục, Thế Tổ sai Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm dân lễ điện (14). Qua năm sau bà được an tán tại lăng Thiên Thụ (15).

        Tháng 6 năm Canh thìn (1820) tôn thụy là : Thừa Thiên Tá Thánh Hậu Đức Từ Nhân Giản Cung Tề Hiếu Dục Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng Hậu.

        Năm Nhâm ngọ (1822) thần chủ của bà được rước vào thờ ở Thế Miếu, ở bên phải thần chủ của Thế Tổ. Bà còn được thờ ở điện Phụng Tiên trong Hoàng thành và điện Minh Thành ở lăng Thiên Thụ.

        Bà là người thân hậu, cần kiệm, biết thương yêu tất cả mọi người. Trong lúc bôn ba nơi gian hiểm, bà tự tay dệt nhung phục cho quân sĩ. Một hôm đang đi thuyền thì gặp địch, Thế Tổ giục quân cố sức đánh, bà cũng cầm trống thúc quân khiến tướng sĩ phấn chấn mà đánh bại dịch. Đức hạnh của bà thật xứng đáng là bậc mẫu nghi trong thiên hạ. đúng với câu được ghi trong văn sách lập làm Hoàng Hậu :

            Hòa dịu cần kiệm tỏ đức hay, làm khuôn mẫu cho mọi gia đình.

            Đem phong hóa quan thư (16) khiến Tu, Tề, Trị, Bình được trông cậy (17).

            Bà sinh đực hai Hoàng tử, trưởng là Nguyễn Phúc Chiêu mất sớm, con thứ là Nguyễn Phúc Cảnh dau được lập làm Đông cung.

        Ông Tổng Phúc Khuông thân sinh của bà được phong Thái Bảo tước Quốc Công, và được lập nhà thờ ở Phú Xuân, (Thừa Thiên) gọi là Tống công từ (sau đổi thành Qui Quốc công Tống công từ), rồi lại được dời về Kim Long, (Thừa Thiên) và đổi tên là Qui Quốc Công từ.

        11.3.1.2    Trần Thị Đang
                (Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu)

        Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu húy là Trần Thị Đang, lại húy là Kính người làng Văn Xá (Hương Trà, Thừa Thiên) là con gái của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, mẹ họ Lê. Bà sinh giờ ngọ ngày 27 tháng 11 Mậu tý (4-1-1769).

        Gặp biến cố năm Giáp ngọ (1774), Hiếu Khang Hoàng Hậu về ẩn náu ở làng An Du, bà được vào hầu. Năm Mậu tuất (1778) khi Thế Tổ nhiếp chính ở Gia Định, sai người ra rước quốc mẫu vào Nam, bà cùng với các công chúa đều đi theo hầu. Bà tấn cung năm 14 tuổi được phong là Tả cung tần còn gọi là Nhị phi.

        Khi quân Tây Sơn còn mạnh thế, bà theo Thế Tổ phiêu  dạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn : "lúc này vận nước còn khó khăn chưa được an định, nếu sinh con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo chỉ thêm bận lòng chúa thượng. Nếu số mệnh có con thì xin thái bình rồi mới sinh, mong Trời ban cho như thế".

        Năm Mậu thân (1788) khi khắc phục được Gia Định, một đêm bà nằm mộng thất thần nhân dâng lên một cái tỉ và hai cái ấn, tỉ có màu sáng đẹp như mặt trời, ấn thì một cái màu sắc tím và một cái màu rất nhạt, bà nhận lấy tất cả (18). Đêm năm Tân hợi (1791) bà 24 tuổi sinh ra Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.

        Năm Tân tị (1821) bà được tấn tôn làm Hoàng Thái Hậu.

        Năm Tân sửu (1841), Hiến Tổ dâng tôn hiệu là : Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu.

        Năm Quý mão (1843) nhân trong cung gặp việc tốt là "ngũ đại đồng đường" (19), việc hiếm thấy xưa nay nên Hiến Tổ dân Kim sách tấn tôn là : Thánh Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu.

        Tháng 8 năm Bính ngọ (1846). bà không được khỏe, qua giờ dậu ngày 18 tháng 9 (6-11-1846) bà mất, thọ 76 tuổi. Đức Hiến Tổ dân tôn thụy là : Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dũ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng Hậu.

        Tháng 2 năm đó bà được an táng tại Lăng Thiên Thụ hữu (20).

        Tháng 11 năm Mậu thân (1848) thần chủ của bà được rước về thờ ở Thế miếu tại gian chính ở bên trái thần chủ của Thế Tổ.

        Bà là người cần kiệm, hiền từ, thông thuộc kinh sử, tính lại khiêm cung thường hay lo nghĩ đến dân. Năm Canh thình (1820) khi xây xong cung Từ Thọ, đực Thánh Tổ và quần thần dâng biểu xin tôn hiệu, bà không chịu nhận mà ban rằng : "Ta biết rõ lòng thành của Hoàng Đế và các quan, nghĩ đến Ninh lăng (21) của Tiên đế mà ăn ngủ không ngon. Nay trời lại sinh lệ khí khiến quân dân sinh bệnh rất nhiều, thấy Hoàng Đế lo lắng suốt ngày, khiến ta không yênmà thương xót không xiết. Tai họa vị tất do người làm vua kém đức mà sinh ra, nhưng được thiên hạ phải có trách nhiệm với thiên hạ, còn ta được sự phụng dưỡng của thiên hạ phải có cái lo của thiên hạ, xin các bậc nguyên lão giúp Hoàng Đế hoàn thành những việc trọn để đổi lại ý trời, khiến dân an vui là ta rất mừng".

        Bà luôn luôn nghĩ đến việc nước, khuyên con nhủ cháu mà ít khi nghĩ đến mình. Một lần khi Thánh Tổ đến hầu cơm, bà đứng dậy đi lại tỏ ý mạnh mẽ và bảo với Thánh Tổ : "Ta biết rằng Hoàng Đế siên năng lo lắng suốt ngày, há để cái thân già gần 70 tuổi này làm Hoàng Đế phải lo lắng thêm, nên ta gắng ăn uống thêm và thấy trong mình khỏe khoắn lắm, con chớ lo".

        Một lần vào năm Quý mão (1843) nhân cùng Hiến Tổ đến ao Minh giám câu cá, bà đã dùng chuyện cá nước để khuyên vua : "Cá ở nơi ao này chẳng lo bị bắt, đối với các lương thần ở trong nước cũng như thế. Ngày xưa vua Chiêu Liệt nhà Gia Cát Vũ Hầu (22) giúp sức tự ví nhứ cá gặp nước. Đạo trị nước của vua gần người hiền, tránh xa kẻ gian, chớ xa xỉ, phải tiết kiệm".

        Ba thường lựa lúc kể khuyên Hiến Tổ nên dùng những người cũ, tuân theo phép tắc của tiên triều, xử sự đúng vai trò của vua, đem đạo quân thần ngày xưa để chỉ bảo, lại khuyên nên nghĩ đến dân mà chăm lo việc nước. Có lần bà cùng với vua lên lầu Ký ân ở vườn Thường mậu nhìn ra đồng ruộng bà bảo : "Thánh Tổ đặc biệt thương Hoàng Đế hơn các con khác, nội biết rõ từ lâu. Trước đây Thánh Tổ cho dựng vườn này nhưng vì sợ phú quý mà sinh xa xỉ, nên cho dựng phủ trước đồng ruộng là để Hoàng Đế biết thương nhà nông, rõ việc cày bừa là gian nan. Hoàng Đế nên tiết kiệm chớ lấy việc ăn uống xai phí, xây cung thất vườn tược làm vui, vì như thế không rõ chí của Tiên Đế".

        Trên 60 năm lo lắng cho chồng, con rồi cháu, bà đã tỏ ra là bậc mẫu nghi, hưởng được sự phụng dưỡng của thiên hạ trên 30 năm. Đã phú quý thọ khảo mà thấy được cả cháu lẫn chắt là điểu hiếm có từ xưa đến nay, thật là :

        Sáng suốt cao xa ngang bằng trời đất vĩnh viễn dài lâu.

        Nhận hưởng khói hương đôn đốc con cháu kế thừa mãi (23).

        Bà sinh được ba hoàng tử, trưởng tử là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, thứ hai lả Kiến An Vương Nguyễn Phúc Đài, thứ ba là Thiệu Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Chẩn .

        Năm Nhâm ngọ (1822) bà cho xây Dụ Khánh từ ở phía tây Kinh thành để thờ Hà Hoa Quận Công, ông nội của bà, về sau đổi tên là Thọ Quốc công từ. Bà lại lập từ đường tại Văn xá thờ năm đời họ Trần từ tổ thứ năm của bà là Trần Phúc Tư (sau gọi là Dụ Khánh từ).

        11.3.1.3    Lê Thị Bình
                (Đức phi)

        Bà người Lam Sơn (Thoại Nguyên, Thanh Hóa) là con gái út của Lê Hiền Tông em gái của Ngọc Hân Công Chúa, mẹ không rõ. Bà sinh ngày 12 tháng 12 năm Giáp thìn (22-1-1785).

        Năm Nhâm tuất (1802) bà vào hầu Thế Tổ, chẳng bao lâu được phong là Tả cung tần.

        Bà mất ngày 12 tháng 9 năm Canh ngọ (10-10-1810), tặng là Đức phi, thụy Cung Thận. Tẩm ở làng Trúc Lâm (Thừa Thiên), nhà thờ ở Kim Long, (Thừa Thiên) sau dời qua làng Phú Xuân. Hiện nay bà được thờ tại nhà thờ phòng Thường Tín.

        Ba sinh được hai hoàng tử va hai hoàng nữ. Trưởng nam là Quảng Uy Công Nguyễn Phúc Quân, con thứ là Thường Tín Công Nguyễn Phúc Cự, trưởng nữ là An Nghĩa Công Chúa Ngọc Ngôn, thứ nữ lả Mỹ Khê Công Chúa Ngọc Khuê.

        11.3.1.4    Lâm Thức
                    (Chiêu dung)

        Bà còn có tên húy là Thí, năm sinh va mất không rõ, lúc được ban tên thụy là Trinh Thục.

        Bà sinh được một hoàng tử là Nguyễn Phúc Tuấn mất sớm và hai hoàng nữ, trưởng là Bình Hưng Công Chúa Ngọc Quỳnh, thứ là Bảo Lộc Công Chúa Ngọc Anh.

        11.3.1.5. Nguyễn Thị Tần
                    (Chiêu Dung)

        Bà sinh ngày 4 tháng 20 năm  Tân hợi (31-10-1791). Năm Tân mùi (1811) nhập cung vào hầu Thế Tổ. Bà mất ngày 22 tháng 4 năm Đinh dậu (26-5-1837), thọ 47 tuổi, ban thụy là Uyên Thận.

        Bà sinh được một hoàng tử là Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Mão.

        11.3.1.6.    Phạm Thị Lộc
                    (Chiêu dung)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Huy Thục.

        Bà sinh được hai hoàng nữ, trưởng là Bình Thái Công Chúa Ngọc Châu và thứ là Bảo Thuận Công Chúa Ngọc Xuyên.

        11.3.1.7.    Hoàng Thị Chức
                    (Chiêu dung)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Trang Ý.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Phú Triêm Công Chúa Ngọc Trân.

        11.3.1.8.    Tống Thị Thuận
                    (Chiêu dung)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Trang Thục.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Nghĩa Hòa Công Chúa Ngọc Nguyệt.

        11.3.1.9.    Dương Thị Sự
                   (Tiệp dư))

        Bà người Duy Xuyên (Điện Bàn, Quảng Nam), con của Tuyên Uy tướng quân Dương Trung. Năm sinh và mất của bà không rõ. Khi mất được ban thụy là Tĩnh Thục.

        Bà sinh được một hoàng tử là Địng Viễn  Quận Vương Nguyễn Phúc Bính, và một hoàng nữ là An Lễ Công Chúa Ngọc Cữu.

        11.3.1.10.    Dương Thị Dưỡng
                    (Tiệp dư)

        Năm sinh và mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy là Ôn Tĩnh.

        Bà sinh được một hoàng nữ là An Thái Công Chúa Ngọc Nga.

        11.3.1.11.    Nguyễn Thị Điền
                    (Chiêu nghi)

        Năm sinh và mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy là Trinh Nhã.

        Bà sinh được một hoàng tử là Diên Khánh Vương Nguyễn Phúc Tấn..

        11.3.1.12.    Trịnh Thị Thanh
                    (Mỹ nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Bà mất năm Tân mão (1831) được ban thụy là Cung Lệ.

        Bà sinh được một hoàng tử là An Khánh Công Nguyễn Phúc Quang.

        11.3.1.13.    Cái Thị Thu
                    (Mỹ nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Nhu Ý.

        Bà sinh được một hoàng nữ là An Điền Công Chúa Ngọc Vạn.

        11.3.1.14.    Nguyễn Thị Vĩnh
                    (Mỹ nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Cung Lệ.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Định Hòa Công Chúa Ngọc Cơ.

        11.3.1.15.    Trần Thị Thể
                    (Mỹ nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất bà được ban thụy là Lương Dung.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Bích.

        11.3.1.16.    Trần Thị Hán
                    (Tài nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Bà sau được về quê quán.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Lý.

        11.3.1.17.    Phan Thị Hạc
                    (Mỹ nhân)

        Năm sinh và mất không rõ.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Thành.

        11.3.1.18.    Nguyễn Thị Uyên
                    (Tài nhân)

        Năm sinh và mất không rõ. Bà sau được về quê quán.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Thiều.

        11.3.1.19.    Đặng Thị Duyên
                    (Tài nhân)

        Năm sinh và mất không rõ.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Trình.

        11.3.1.20.    Tống Thị Lâu
                    (Tả cung tần)

        Năm sinh và mất không rõ.

        Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Ngoạn.

        11.3.1.21.    Nguyễn Thị Thụy
                    (Cung tần)

        Năm sinh và mất không rõ.

        Bà sinh được một hoàng tử là Điện Bàn Công Nguyễn Phúc Phổ

        Nogài ra còn có một số bà không rõ tên vá lai lịch.

               11.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ

                            Đức Hưng Tổ có 6 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ

             Hoàng tử

        Hoàng nữ
   
1. Nguyễn Phúc Cảnh 1. Nguyễn Phúc Ngọc Châu
2. Nguyễn Phúc Hy 2. Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh
3. Nguyễn Phúc Tuấn 3. Nguyễn Phúc Ngọc Anh
4. Nguyễn Phúc Đảm 4. Nguyễn Phúc Ngọc Trân
5. Nguyễn Phúc Đài 5. Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến
6. Nguyễn Phúc Bính 6. Nguyễn Phúc Ngọc Ngoạn
7. Nguyễn Phúc Tấn 7. Nguyễn Phúc Ngọc Nga
8. Nguyễn Phúc Phổ 8. Nguyễn Phúc Ngọc Cửu
9. Nguyễn Phúc Chẩn 9. Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt
10. Nguyễn Phúc Quân 10. Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn
11. Nguyễn Phúc Cự 11. Nguyễn Phúc Ngọc Vân
12. Nguyễn Phúc Quang 12. Nguyễn Phúc Ngọc Khuê
13. Nguyễn Phúc Mão 13. Nguyễn Phúc Ngọc Cơ
  14. Nguyễn Phúc Ngọc Thiều
  15. Nguyễn Phúc Ngọc Lý
  16. Nguyễn Phúc Ngọc Thành
  17. Nguyễn Phúc Ngọc Bích
  18. Nguyễn Phúc Ngọc Trình

        11.3.3  Anh chị em

        11.3.3.1A    Nguyễn Phúc Hạo
                            (Tương Dương Quận Vương)

        Ông là con trưởng của Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn. Năm sinh không rõ. Ban đầu ông giữ chứa Cai Cơ, mất trong khi đánh giặc, ông mất ngày 18 tháng 7 âm lịch (không rõ năm). Năm Ất sửu (1805) ông được tặng là Thái Phó Quốc Công thụy Trung Nghĩa, được thờ ở Thái miếu.

        Năm Giáp tuất (1814) vua Gia Long gia tặng là Trang công, cho thờ ở Triển Thân Từ (24). Năm Tân mão (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Chính, cải thụy là Cung Mục ban tước Tương Dương Quận Vương. Năm Canh tuất (1850) ông được rước về thờ ở Thân huân từ (25). Ông vô tự.

        11.3.3.2A    Nguyễn Phúc Đồng
                            (Hải Đông Quận Vương)

        Ông là con thứ hai của đức Hưng Tổ, em cùng mẹ với đức Thế Tổ. Năm sinh không rõ. Ban đầu ông giữ chức đội trưởng đội thuyền Gia Tam.

        Mùa xuân năm Ất mùi (1775), ông theo đức Duệ Tông vào Nam, đến ở Gia Định và thường hay đi đánh giặc.

        Năm Đinh dậu (1777), quân Tây Sơn xâm phạm Long Xuyên, ông bị giặc hại.

        Ông mất ngày 18 tháng 9 năm Đinh hậu (18-10-1777). Năm Kỷ dậu (1789) ông được tặng là Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ Sự Chưởng Cơ, thụy Anh Nghị.

        Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long phong tặng là Dực Vận Minh Nghĩa Tôn Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thái Sư, tước Quốc công và đổi thụy là Trung Tiết, cho thờ ở Thái Miếu.

        Năm Giáp tuất (1814) vua gia tặng là Uy Công, cho thờ ở Triển thân từ.

        Năm Tân mão (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thân Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Chính, cải thụy Cúng Ý, phong tước Hải Đông Quận Vương.

        Năm Quý mão (1843) vua Minh Mệnh cho lập nhà thờ ở Tân An (26) (Hương Thủy, Thừa Thiên) để thờ ông cùng với Thông Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Điển, Thuận An Công Nguyễn Phúc Hy.

        Ông vô tự.

        11.3.3.4A    Nguyễn Phúc Mân
                            (An Biên Quận Vương)

        Ông là con thứ 5 của đức Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn, em cùng mẹ với Tương Dương Quận Vương Nguyễn Phúc Hạo. Năm sinh không rõ.

        Mùa xuân năm Ất mùi (1775) ông theo đức Duệ Tông vào Gia Định giữ chức Thiếu Phó Quận Công. Năm Nhâm dần (1782) quân Tây Sơn tấn công Sài Côn, Thế Tổ phải lánh mình ra Phú Quốc, sau đó cùng với Chu Văn Tiếp đại phá địch ở Ngưu Chữ, chiếm lại Sài Côn rước Thế Tổ về.

        Mùa xuân năm Quý mão (1783) quân Tây Sơn lại tấn công, ông giữ lũy Giàc ngư. Lũy bị hãm, ông chạy qua cầu treo bị dịch chặt đứt cầu rơi xuống mà chết.

        Ông mất ngày 24 tháng 2 năm Quý mão (26-3-1783).

        Năm Kỷ dậu (1789) ông được tặng Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ Sự Chưởng Dinh, thụy là Trung Dũng.

        Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long gia tặng là Tuyên Lực Tôn Thần Khai Phủ Phụ Quốc Nguyên Súy Thái Phó Nghị Công, thụy Trung Hiến, cho thờ ở Triển thân từ. Đến năm Giáp thân (1824) vua Minh Mệnh cho thờ ở Thế Miếu.

        Năm Tân mão (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Lệnh, cải thụy là Trung Hoài, phong tước An Biên Quận Vương.

        Năm Canh tuất (1850) rước về thờ ở Thân Huân từ.

        Ông vô tự.

        11.3.3.6A    Nguyễn Phúc Thiển
                            (Thông Hóa Quận Vương)

        Ông là con thứ sáu của đức Hưng Tổ, em cùng mẹ với đức Thế Tổ. Năm sinh không rõ.

        Năm Ất mùi (1775) ông theo đức Duệ Tông vào Gia Định, thường hay đi đánh giặc.

        Năm Quý mão (1783) quân Tây Sơn tấn công Sài Côn, ông theo Thế Tổ lánh mình ra Phú Quốc. Đến đảo Diệp Thạch, địch đuổi theo kịp, ông bị bắt, mắng chưởi dịch cho đến chết.

        Ông mất vào tháng 6 năm Quý mão (1783).

        Năm Kỷ dậu (1789) ông được phong là Cẩm Vệ Y Chưởng Vệ Sự Cai Cơ, thụy Tráng Tiết.

        Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long tặng là Dực Vận Tĩnh Nạn Tôn Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân thái Bảo Quốc Công, thụy Trung Mẫn, cho thờ ở Thái Miếu.

        Năm Giáp tuất (1814) vua gia tăng là Tương Công, thờ ở Triển thân từ.

        Năm Giáp thân (1824) vua Minh Mệnh cho thờ ở Thế Miếu. Năm Tân mão (1831) vua gia tặng Tà Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Lệnh, đổi thụy là Trung Tráng, phong tước Thông Hóa Quận Vương.

        Năm Quý mão (1843) ông được rước về thờ tại Thân Huân từ.

        Ông vô tự.

        11.3.3.1B    Nguyễn Phúc Ngọc Tú
                            (Long Thành Công Chúa)

        Bà là trưởng nữ của đức Hưng Tổ, chị cùng mẹ với đức Thế Tổ. Sinh năm Kỷ mão (1759).

        Khi có loạn Giáp ngọ (1774), bà theo Hiếu Khang Hoàng Hậu ẩn náu ở làng An Dụ (Quảng Trị). Mùa xuân năm Kỷ hợi (1779) bà theo hậu vào Gia Định rồi lấy chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quý mão (1783) khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển phải cởi áo đổi cho Thế Tổ để Thế Tổ thoát mình, nên bị địch bắt, ông mắng chưởi địch cho đến chết.

        Khi chồng mất, bà còn trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng : "Điển làm bề tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta làm vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật". Thế Tổ khen chí của bà.

        Đầu đời Gia Long, vua làm nhà tại lăng Dương Xuân, (Thừa Thiên) cho bà ở. Bà thường xin cắt tóc tu nhưng vua không cho.

        Bà mất vào tháng 11 năm Quý mùi (1828), thọ 65 tuổi.

        Khi bà bị bệnh nặng, Thánh tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, bà khóc tâu rằng : "Cắt tóc thờ Phật là ý nguyện của vị vong nhân (27), ý nguyện này chưa được toại, xin bệ hạ làm cho trọn ý nguyện đó. Sau khi chết xin chớ để tóc, và liệm bằng áo cà sa thì dù ở dưới chốn cửu tuyền cũng hoàn thành được ý nguyện đó. Vua lấy làm cảm động.

  &


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình

Các anh em, dâu rể:
   Nguyễn Phúc Hạo (?-18/7AL-?)->ko con
   Nguyễn Phúc Ngọc Tú (1759-11/1828)->ko con
   Nguyễn Phúc Đồng(176?-18/9AL-1777)->ko con
   Nguyễn Phúc....
   Nguyễn Phúc Mân(17?-24/2AL-1783)->ko con
   Nguyễn Phúc Thiển(17?-6/1783)->ko con?
   Nguyễn Phúc Ngọc Du(1762-1820)-Vũ Tính
   Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền(1764-1782)-Nguyễn Hữu Thụy->ko con
   Nguyễn Phúc Ngọc Uyển (1766-1810)-Tống Phúc Tín
Con cái:
       Nguyễn Phúc Cảnh(6/4/1780-17?) -> Anh Duệ Hoàng Thái Tử-ko con
       Nguyễn Phúc Hy-THUẬN AN CÔNG
       Nguyễn Phúc Tuấn
       Nguyễn Phúc Kiểu (1791-1841)->Đảm-VUA MINH MẠNG)
       Nguyễn Phúc Đài- KIẾN AN VƯƠNG
       Nguyễn Phúc Bính(6/9/1797-1854)-ĐỊNH VIÊN QUẬN VƯƠNG->có 42CT+31CN\
       Nguyễn Phúc Tấn- DIÊN KHANH VƯƠNG
       Nguyễn Phúc Phổ- ĐIỆN BAN CÔNG
       Nguyễn Phúc Chẩn-THIỆU HOA QUẬN CÔNG
       Nguyễn Phúc Quân-QUẢNG UY CÔNG
       Nguyễn Phúc Cự-THƯỜNG TÍN QUẬN VƯƠNG
       Nguyễn Phúc Quang-AN KHÁNH VƯƠNG
       Nguyễn Phúc Mão-TỪ SƠN CÔNG
       Nguyễn Phúc Ngọc Châu
       Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh
       Nguyễn Phúc Ngọc Anh
       Nguyễn Phúc Ngọc Trân
       Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến
       Nguyễn Phúc Ngọc Ngoạn
       Nguyễn Phúc Ngọc Nga
       Nguyễn Phúc Ngọc Cửu
       Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt
       Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn
       Nguyễn Phúc Ngọc Vân
       Nguyễn Phúc Ngọc Khuê
       Nguyễn Phúc Ngọc Cơ
       Nguyễn Phúc Ngọc Thiều
       Nguyễn Phúc Ngọc Lý
       Nguyễn Phúc Ngọc Thành
       Nguyễn Phúc Ngọc Bích
       Nguyễn Phúc Ngọc Trình
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.