GIA

PHẢ

TỘC

Doãn

(nhánh
Doãn
Uẩn,
Doãn
Khuê)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: Doãn Đình Dụng (Doãn Đình Tấn)
Đời thứ: 2
Người trong gia đình
Tên Doãn Ôn (Doãn Uẩn) (Nam)
Tên thường Doãn Uẩn
Tên Tự
Ngày sinh 1795
Thụy hiệu  
Hưởng thọ: 56  
Ngày mất 1850  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

An tây mưu lược tướng Doãn Uẩn (1795-1850), Tổng đốc An-Hà (An Giang và Hà Tiên) năm 1847-1850, Thượng thư Bộ Binh (tức là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) (hàm nhị phẩm), tước Tuy Tĩnh tử (tức là tử tước Tuy Tĩnh, quan lại quý tộc nhà Nguyễn)

Doãn Uẩn

An Tây mưu lược tướng Doãn Uẩn 尹蘊 (1795-1850), là một danh tướng, văn võ song toàn, phụng sự ba đời vua nhà Nguyễn liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đặc biệt, ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị.

Thân thế

Doãn Uẩn[1] nguyên húy là Doãn Ôn, tự là Nhuận Phủ, Ôn Phủ, hiệu là Nguyệt Giang, Tĩnh Trai, quê quán làng Ngoại Lãng - Thư Trì (nay thuộc xã Song Lãng - huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình). Sau này, khi làm quan có nhiều công trạng, ông được vua Minh Mệnh đổi tên thành Doãn Uẩn.

Ông sinh ngày 27-12-1795 (tức 17 tháng 11 năm Ất Mão), tại nơi dậy học của thân phụ: làng Khê Cầu (xã Minh Khai - huyện Vũ Thư), là con cháu đời thứ tư của dòng họ Doãn đất Song Lãng văn hiến.

Ông là anh họ - con bác ruột - của tiến sĩ Doãn Khuê. Năm 19 tuổi ông được theo học Hoàng giáp Bùi Huy Bích, người quê ở Thịnh Liệt-Thanh Trì, là quan Tham tụng (Tể tướng) triều Lê-Trịnh.

Sự nghiệp

Nội chính

Tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 9 (Mậu tý-1828), Doãn Ôn đỗ Cử nhân hạng ưu, năm sau ông có đi thi hội nhưng không đỗ.

Cuối năm 1829 ông được bổ chức quan Điểm bạ ở Hàn lâm viện và bắt đầu sự nghiệp quan trường của mình.

Năm Tân mão 1831 ông được thăng chức Viên ngoại lang bộ Hộ và được vua đổi tên.

Năm 1832, Doãn Uẩn giữ chức Lang trung bộ Hộ, đến tháng 11 thì được thăng Tham tri bộ Hộ và giữ quyền Án sát tỉnh Vĩnh Long.

Tháng 3 năm 1833 chính thức giữ chức Án sát Vĩnh Long (Án sát tức là viên quan đứng đầu về công việc bộ Hình ở địa phương). Đến tháng 5 cùng năm, giữ chức Tổng trấn tỉnh Gia Định (tên cũ là Phiên An tỉnh).

Tới tháng 6 năm 1833, tỉnh Vĩnh Long bị quân nổi dậy của Lê Văn Khôi chiếm, ông chiêu mộ quân sĩ về khôi phục thành trì, trở lại làm Án sát Vĩnh Long và tham gia hội đồng Tổng đốc quan phòng Vĩnh Long - Định Tường.

Tháng 10 năm 1833, ông chỉ huy đẩy lùi được quân Xiêm la ra khỏi biên giới các tỉnh An Giang, Hà Tiên và tham gia thực hiện chính sách "Hòa hợp bộ lạc, củng cố bờ cõi lâu dài" của vua Minh Mạng. Tháng 4/1834 ông được bổ làm Lang trung bộ Hình và được mời về kinh thành Huế, nhậm chức.

Tháng 8 năm 1834, tình hình tỉnh Thái Nguyên có lộn xộn, ông được cử làm Án sát Thái Nguyên, rồi cùng Phạm Đình PhổNguyễn Công Trứ tiễu trừ thắng lợi cuộc nổi dậy của Nông Văn VânTuyên Quang. Sau khi vỗ về yên dân ở các vùng Chợ Mới, Bạch Thông, Chợ Rã ..., ông hồi Kinh và dâng sớ lên vua xin được tập trung quân sĩ trở vào thành Định Tường đánh giặc.

Tháng 8 năm 1836, sau khi thắng giặc ở Định Tường và được thăng chức Hữu thị lang bộ Lại, ông lại được đổi sang chức Hữu thị lang bộ Hình, đến tháng 11 năm 1836 ông lại làm Tả thị lang bộ Hộ và được điều ra bắc nhậm chức Kinh lược phó sứ, Thự tuần phủ quan phòng Hưng Yên để giải quyết việc quan hệ với Công giáo.

Tháng 12 năm 1836 và đầu năm 1837 ông nhậm chức Kinh lược phó sứ Thanh Hóa (phụ trách đạo Nông Cống), cùng Kinh lược sứ Trương Đăng Quế và Phó sứ khác là Nguyễn Đăng Giai, dẹp loạn đảng chống triều đình là Lê Duy Hiển, bắt cầm đầu phản loạn Lê Yên và gián điệp Lê Công Vụ, chia lại ruộng đất ổn định hành chính, quản lý chặt chẽ vùng nông thôn Thanh Hóa.

Năm 1838 ông được vua Minh Mạng cho giữ nguyên ấn Hưng Yên tuần phủ quan phòng (cấp năm 1836) và được thăng lên Tổng đốc Định-Yên (Nam ĐịnhHưng Yên) kiêm Tuần phủ Hưng Yên (tỉnh trưởng tỉnh Hưng Yên).

Đầu năm 1839, ông lãnh chức Khâm sai, cùng Thự tả Tham tri bộ Lễ là Tôn Thất Bạch và Bố chính Quảng Nam là Vương Hữu Quang, đi duyệt tuyển dân đinh các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Tháng 7 năm 1839 ông cùng Thượng thư Võ Xuân Cẩn vào tỉnh Bình Định, làm sổ địa bạ, hoạch định quân điền, phân cấp ruộng công (đây là một cuộc cải cách ruộng đất tiến bộ) [2][3][4].

Hoạt động ở Cao Miên

Năm 1840 ông được cử làm Phó Khâm sai đại thần tại Trấn Tây (tức vùng xung quanh Phnom Penh - Cao Miên, giáp Việt Nam). Tại đây ông định lại các loại thuế, ổn định đời sông nhân dân, giữ yên biên cương Tây Nam (vùng đất Trấn Tây thuộc Cao Miên mà nhà Nguyễn kiểm soát).

Tháng 7 đến tháng 12 năm 1840 ông được cử làm Bang biện đại thần Trấn Tây, cùng Hiệp tán Cao Hữu Dực coi giữ thành Trấn Tây (tức Nam Vang, hay là Phnom Penh). Đến khi vua Minh Mạng mất, vua Thiệu Trị đăng quang đã quyết định bỏ thành Trấn Tây rút quân về nước, thì ông được gọi về kinh và thăng chức Hữu Tham tri bộ Hộ. Đến tháng 5 năm 1844, ông lại được cử vào Nam kỳ giữ chức Tuần phủ An Giang (tỉnh trưởng) thay cho Nguyễn Công Trứ, (cùng lúc với Nguyễn Văn Chương làm Tổng đốc An Hà thay cho Nguyễn Công Nhàn). Trong thời gian này ông cùng Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) đã dâng sớ xin vua cho nhân dân sáu tỉnh Nam kỳ được miễn các loại thuế trong vòng một năm, lược bỏ các thủ tục thanh tra bất hợp lý (cải cách hành chính).

Năm 1845, ông cùng Nguyễn Tri Phương dâng sớ tâu trình tình hình ở Trấn Tây: hoàng thân Cao Miên sang cầu cứu nhà Nguyễn, đề nghị triều đình cử đại thần giải quyết rứt điểm việc Cao Miên (Chân Lạp).

Tháng 6 năm 1845, ông cùng Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng chia hai ngả đánh các đồn quân Cao Miên (của Ang Duong) ở khoảng biên giới Việt Nam - Campuchia ngày nay. Sau đó ông dẫn quân tới đánh tan đồn Sách Sô, nằm ở ngã ba giữ chi lưu sông Tiền Giang.

Tới tháng 8, ông cùng Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), tiến đánh hạ được đồn Thiết Thằng (đồn dây sắt), là cứ điểm phòng ngự phía trước Nam Vang của liên quân Xiêm La - Cao Miên do tướng Chất Tri chỉ huy, nằm ở khoảng ngã ba thượng lưu giữa sông Tiền Giangsông Hậu Giang, trên đường tới Phnom Penh. Sau khi đồn Thiết Thằng bị phá, quân Xiêm - Lạp ở Nam Vang (Phnom Penh) rút chạy về cố thủ tại kinh đô Oudong. Sau khi bình định xong Trấn Tây, ông cùng Nguyễn Tri Phương đem quân theo đường thủy tới Vũng Long (tức là bến Kompong Luong), rồi lên bờ tiến tới vây hãm Oudong, nơi tướng Xiêm La (Thái Lan) là Phi nhã Chất Tri (tướng Chao Phraya Chakri Bodin) cùng hoàng thân Cao Miên là Nặc Ông Giun (Ang Duong) đang cố thủ. Tướng Xiêm La Chakri Bodin phải nhiều lần gửi thư xin giảng hòa.

Đến tháng 10 thì quân nhà Nguyễn do ông và Nguyễn Tri Phương chỉ huy chiến thắng quân Xiêm - Lạp tại ngoại thành Oudong (U Đông). Tháng 11, quân nhà Nguyễn chiếm xong thành Oudong, bắt tướng Chất Tri phải ký hòa ước ở hội quán: quân Xiêm La phải triệt đồn lui quân về nước, cả hai bên đều cho quân nghỉ, vua Ang Duong phải dâng thư xin thứ tội và thần phục nhà Nguyễn.

Cuối 1846, sau nhiều lần trì hoãn quân Xiêm cũng phải lui binh về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia).

Đầu năm 1847, Ang Duong phải cho sứ thần sang kinh đô Huế triều cống, vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương, Ang Mey làm Cao Miên quận chúa. Đến tháng 3, vua hạ chiếu cho Bảo hộ Cao Miên tại Trấn Tây là Võ Văn Giải (Vũ Văn Giải) rút hết quân về nước đóng tại An Giang để nghỉ ngơi. Trong thời gian đánh trận tại Trấn Tây, Doãn Uẩn được vua phong làm An Tây mưu lược tướng, giữ quyền Thượng thư Bộ Binh, (cùng Nguyễn Văn Chương được phong là An Tây trí dũng tướng). Vua sai ông cùng các tướng lĩnh khác kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Tới tháng 6 năm 1847, Doãn Uẩn được thăng Thượng thư Bộ Binh kiêm Hữu Đô ngự sử (trưởng quan) Đô sát viện và Tổng đốc An Hà (An Giang và Hà Tiên) (hàm chính Nhị phẩm trong Quan chế nhà Nguyễn), được phong tử tước hiệu Tuy Tĩnh.

Tháng 7 năm 1847, vua Thiệu Trị đúc 9 cỗ thần công, Doãn Uẩn được khắc tên vào cỗ thứ nhất Thần uy phục viễn đại tướng quân. Cùng thời gian này, Doãn Uẩn đứng ra xây dựng chùa Tây An tại chân núi SamChâu Đốc An Giang. Cuối năm 1847, vua Thiệu Trị mất vua Tự Đức lên nối ngôi, Doãn Uẩn về kinh dự lễ an táng vua ở Xương Lăng.

Tháng 6 năm 1848, vua Tự Đức cho khắc bia ghi công các tướng thắng trận ở Trấn Tây, đặt tại Võ miếu Huế (hiện bia này đã bị thất lạc), tên của ông được ghi hàng thứ 3/6 người gồm: Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Văn Hoàng, Tôn Thất Nghị.

Ngày 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu, tức là ngày 3 tháng 1 năm 1850, Doãn Uẩn bị bệnh mất tại An Giang, thọ 56 tuổi. Linh cữu ông được đưa về an táng tại quê nhà. Sau khi mất ông được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ và bài vị của ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với 39 danh thần nhà Nguyễn khác.

Con cả của ông là Doãn Chính sau này làm Tri phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên, chống giặc cờ tức là tàn quân của Thái Bình Thiên QuốcTrung Quốc kéo sang vây hãm thành Phú Bình trong 3 tháng. Sau vì hết lương, Doãn Chính phải tự vẫn. Vua Tự Đức xuống chiếu ban khen và truy tặng hàm Thị độc học sĩ.[5]

Lễ kỷ niệm 210 năm ngày sinh An tây mưu lược tướng Doãn Uẩn
Lễ kỷ niệm 210 năm ngày sinh An tây mưu lược tướng Doãn Uẩn
Bằng công nhận di tích lịch sử (cấp tỉnh) cho từ đường và lăng mộ An tây mưu lược tướng Doãn Uẩn
Bằng công nhận di tích lịch sử (cấp tỉnh) cho từ đường và lăng mộ An tây mưu lược tướng Doãn Uẩn

Tác phẩm

  • Trấn Tây kỷ lược
  • Tuy Tĩnh tạp ngôn

Chú thích

  1. ^ Kỷ niệm 210 năm ngày sinh danh nhân Doãn Uẩn và đón bằng di tích lịch sử văn hóa, đăng ngày 6/01/2006
  2. ^ Địa chí Bình Định-Phân tích phép quân điền
  3. ^ Địa bạ tỉnh Bình Định
  4. ^ Bài: Cải cách điền địa 1839 ở Bình Định trên Bách khoa toàn thư Việt Nam, bản điện tử
  5. ^ Sách "Quốc triều chính biên toát yếu" của Quốc sử quán triều Nguyễn - Quyển V, bản tiếng Việt trang 168

Tham khảo


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình

Các anh em, dâu rể:
   Doãn Trân [trưởng tộc đời thứ 3]
   Doãn Thị Ý
Con cái:
       Doãn Chính [trưởng tộc đời thứ 4.1]
       Doãn Trực [trường tộc đời thứ 4.2]
       Doãn Xuân
       Doãn Hanh
       Doãn Cát
Gia Phả; Doãn 尹 (nhánh Doãn Uẩn, Doãn Khuê)
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Doãn 尹 (nhánh Doãn Uẩn, Doãn Khuê).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Doãn 尹 (nhánh Doãn Uẩn, Doãn Khuê)
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.