PHẦN I
DÒNG DÕI HỌ TRẦN NGỌC
Dòng dõi họ Trần Ngọc, kể từ cụ Tổ đến nay đã tới 14, 15 đời và có thể chia làm 4 thời kỳ chính:
Thời kỳ 1: Vào khoảng năm 1500, Tổ tiên ta phát tích từ làng Đại Bối huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, lúc đó họ ta là họ Lê, lấy chữ đệm là Minh.
Thời kỳ 2: Vào khoảng năm 1530, cụ Tổ rời về quê mẹ là làng Cổ Chử huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định . Thời kỳ này cụ Tổ đổi từ họ Lê ra họ Trần, vì họ Trần là họ cụ bà thân sinh ra cụ Tổ.
Thời kỳ 3: Vào khoảng năm 1586. Chính cụ Tổ ta lại di cư về làng ta hiện nay là làng Phù Tải (lúc đó gọi là Bồ Tải Trang) tổng Yên Đổ, huyện Bình Lục, thuộc Sơn Nam trấn. Nay là tỉnh Hà Nam Ninh và khởi đầu họ Trần Ngọc ở Phù Tải từ đó.
Thời kỳ 4: Vào khoảng năm 1954. Trước đây, con cháu cụ Tổ phần đông sinh sống và quy tụ tại quê hương là làng Phù Tải. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử và xã hội nên một phần bà con trong họ ta đã rời quê hương đi làm ăn sinh sống ở rải rác khắp nơi trong nước và cả ở nước ngoài. Hiện nay con cháu cụ Tổ rất đông và đã lên tới khoảng trên một ngàn người.
TIỂU SỬ CỤ TỔ
Theo gia phả của họ ta, thì gốc tích họ ta như sau: Tổ tiên ta phát tích từ làng Đại Bối, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, vốn là họ Lê, các cụ đời đời làm quan dưới triều Lê.
Đến đời cụ thân sinh ra cụ Tổ ta, có 5 anh em đều có chức tước ở triều Lê, thời bấy giờ gọi là 5 vị hổ tướng. Gia phả cũ chép thế xưng vi ngũ hổ tướng quân.
Người anh cả là Trinh-quân-công tự là Sùng-Đức. Người anh thứ hai là Tân-quận-công tự là Lạc-Đạo. Người thứ ba là cụ thân sinh ra cụ Tổ ta, tên là Lê-Minh-Triết, húy là Văn-Linh tự là Minh-Đạt, tước Hán-quận-công. Người em thứ tư là Quán-quận-công, tự là Thiện-Tính. Người em thứ năm là Huân-quận-công, tự là Bản-Ngộ.
Cụ Hán-quận-công Lê Minh Triết lấy bà Trần Thị Từ Huệ người làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, sinh ra cụ Tố ta. Lúc đó cụ Tổ ta tên là Lê Minh Bảo (gia phả cũ chép "ngã sơ danh Lê-Minh-Bảo).
Giữa lúc loạn ly, nhà Lê mất ngôi, nhà Mạc lên thay, cụ thân sinh ra cụ Tổ mất, lúc đó cụ Tổ ta còn nhỏ, cụ bà phải đem cụ Tổ ta lánh về làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định là quê hương cụ bà và đổi tên là Trần Văn Bảo.
Trong hành-trạng (tức là tiểu sử) về cụ Tổ thời đó có ghi:
Bỗng đâu nghiêm phụ xa đời
Bởi đâu xúi giục biến dời biển dâu
Mẹ con lo lắng âu sầu
Nghĩ sao cho được ngõ hầu an thân
Tìm về Cổ-Chử họ Trần
Quê nhà chốn ấy an bần là hơn
Trong gia phả họ ta ghi cụ Tổ sinh giờ Dần ngày mồng 7 tháng Giêng năm Bính Dần (1506), niên hiệu Đoan-Khánh năm thứ 2 nhà Lê.
Ngay khi còn nhỏ ở Cổ Chử, cụ Tổ đi học, đã nổi tiếng là người hay chữ và thông minh.
Cụ đi thi vào thời nhà Mạc, thi Hương, thi Hội cụ đều đỗ đầu. Đến khi thi Đình, cụ đỗ Tiến sĩ Đệ Nhất Giáp, Đệ Nhất Danh (tức là Trạng Nguyên) thuộc niên hiệu Cảnh-Lịch thứ 3, vào năm Canh Tuất (1550), đời vua Mạc Phúc Nguyên.
Cùng đỗ Trạng Nguyên dưới triều Mạc có cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng cụ Trạng Trình đỗ trước cụ Tổ ta.
Cụ Tổ được cử làm Lại Bộ Thượng Thư, Nhập thị Kinh Diên (tức là dạy vua học). Cụ có đi Sứ sang Trung Quốc vào Triều Minh Thế Tông.
Cụ lần lượt được phong tước Nghĩa Sơn Bá, Hồng Xuyên Hầu, Nghĩa Quận Công.
Nhưng sau mấy lần từ quan và 3 lần dâng sớ khuyến cáo nhà Mạc cải cách chính sự, không được vua Mạc thi hành. Cụ bèn từ bỏ mọi quyền cao, chức trọng, không màng danh lợi để trở về quê nhà sống một đời ẩn dật. Nhưng liền sau đó cụ lại bỏ làng Cổ Chử ra đi vào ngày mồng 1 tháng 2 năm Bính Tuất (1586) để về ở ẩn tại quê ta, tức là làng Phù Tải, huyện Bình Lục, trong gia phả ghi là "Mai danh ẩn tích". Theo sử chép thì lúc đó cụ đã 63 tuổi.
Về quê ta, cụ giấu tên, giấu tuổi, giấu tung tích, làm ông Đồ dạy học. Lúc đó học trò cụ rất đông.
Cụ kết hôn với cụ bà ở làng Tiêu Động (làng bên cạnh) tên là Đào Thị Phương. Sau này mộ cụ bà Phương để chung với mộ cụ Tổ ở làng ta, gọi là mộ để song-huyệt.
Khi còn ở tại Cổ Chử, cụ đã kết hôn với một người con gái ở làng này, trong gia phả cũ chép "Thú Cổ Chử chi nữ", sinh ra được ba người con
Người thứ nhất là cụ Trần Đình Huyên. Cụ Huyên đỗ Tiến Sĩ đời Mạc Đoan Thái thứ 2 (1586) niên hiệu Quang Hưng. Cụ làm đến Công-Khoa-Đô-Cấp-Sự-Trung. Tên cụ Huyên có được ghi trong Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục (trang 219-220).
Người thứ hai là cụ Trần Văn Thịnh, cụ Thịnh học tại Quốc Tử Giám, cụ đỗ Khoa Tứ Trường và làm đến Thượng Thư. Cụ kết hôn với Quyền Lộc Công Chúa và là phò mã của vua Tuyên Tông, tức là Mạc Phúc Nguyên.
Người thứ ba là cụ Trần Ngọc Lâm, theo gia phả họ ta cụ Lâm sinh năm Canh Ngọ (1570). Cụ Lâm theo cụ Tổ về ở ẩn tại quê ta. Trong gia phả cũ chép về cụ Lâm như sau: "Tòng Trạng Nguyên công ẩn tại Hà Nam tỉnh, Bình Lục huyện, Phù Tải xã". Cụ Lâm làm Cai Huyện (Tri Huyện) tước Phù Đô Hầu.
Cụ Tổ ta, theo gia phả họ ta ghi, cụ mất ngày mồng 5 tháng 12 năm Canh Tuất (1610) niên hiệu Hoằng Định nhà Lê, thọ 105 tuổi. Mộ táng tại một khu gọi là Phượng Hoàng (tục gọi là Mả Cả).
Duệ hiệu của cụ Tổ là: Hiển Hoàng Thuỷ Tổ Khảo, Mạc Triều Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp, Đệ Nhất Danh, Lại Bộ Thượng Thư, Nhập Thị Kinh Diên, Nghĩa Sơn Bá, Hồng Xuyên Hầu, Nghĩa Quận Công, huý Trần Văn Bảo, thụy Tích Đức Tiên Sinh . Sắc phong Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần, gia tặng Đoan Túc Tướng Công Tôn Thần.
SỬ SÁCH NÓI VỀ CỤ TỔ
Ngoài gia phả họ ta ra, cũng còn nhiều sử, sách và tài liệughi chép về sự tích của cụ Tổ ta, gồm các quyển say đây:
- Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục (trang 180)
- Lịch Đại Danh Hiền Phổ (trang 10-11)
- Đại Việt Thông Sử (trang 196-287)
- Lịch Triều Hiến Chương loại chí (quyển nhân vật chí từ trang 157-161)
- Tam Khôi Bị Lục (trang 119-120)
- Đăng Khoa Lục Sưu Giảng (trang6-7)
- Lịch Thế Đăng Khoa (trang 67)
- Lược Khảo Khoa Cử Việt Nam (trang 99)
- Địa Dư huyện Bình Lục (trang 50-51)
- Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm (trang 298)
- Văn Hoá Việt Nam Tổng Hợp (trang 210-211)
Ngoài ra cũng còn những sách sau đây có viết về cụ Tổ nhưng chưa kê cứu được:
- Khoa Bảng Tiêu Kỳ
- Thiên Nam Lịch Triều Liệt Huyện Đăng Khoa
- Đại Việt Đỉnh Nguyên Phật Lục
- Sách nói về 46 vị Trạng Nguyên của Việt Nam
1. Sách Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục:
Sách nay bằng chữ Hán (trang 43) do Nguyễn Hoàn soạn vào năm 1779. Tạ Thúc Khải dịch, do Bộ Giáo Dục xuất bản, trang 180 có chép rằng: "Năm Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550) Triều Mạc, trúng đệ nhất giáp Tiến Sĩ (Trạng Nguyên) TRẦN VĂN BẢO, người làng Cổ Chử, hạt Giao Thủy, thi đỗ khi 27 tuổi, có đi sứ, làm đến Thượng Thư, Nghĩa Sơn Bá tặng Nghĩa Quận Công. Thân phụ ông ĐÌNH HUYÊN, cha con đều đăng khoa.
2. Sách Lịch Đại Danh Hiền Phổ:
Nguyên văn chữ Hán (trang 3), Nguyễn Thượng Khôi dịch ra tiếng Việt, Bộ Giáo Dục xuất bản (trang 10-11) có chép rằng: "Ông TRẦN VĂN BẢO, người làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định) đỗ Nhất Giáp (Trạng Nguyên) khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch đời nhà Mạc . Nghe nói bà mẹ ông ngày trước nghèo lắm, nằm trên đống thổ phụ ở An Lạc rồi chết ở đấy, bị mối đùn đất lấp kín, sau ông đỗ Trạng Nguyên là nhờ phát ở ngôi mộ ấy. Tôi có đi qua đấy, không kịp xem kỹ, nhưng thấy cái gò ấy không cao lắm, nằm giữa khu ruộng trũng và đống đất nổi lên đột khởi giữa khoảng bình nguyên, một con mộc nằm ngang, gai con bút chạy thẳng, dù vẽ cũng không vẽ được khéo như thế".
3. Sách Lịch Thế Đăng Khoa:
Sách này bằng chữ Nho, viết tay, để tại viện khảo cổ Saigòn, trang 67 có ghi về tiểu sử cụ Tổ như sau: (sách ghi gần giống với sách Lịch Đại Danh Hiền Phổ)
"Ông Trần Văn Bảo (tức Văn Tuyên), người huyện Giao Thủy, xã Cổ Chử. Năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch, trúng Đệ Nhất Giáp, Đệ Nhất Danh (tức là Trạng Nguyên). Con ông là Trần Đình Huyên cũng đỗ Tiến Sĩ. Nghe nói nhà ông rất nghèo, mẹ phải đi cấy lúa cho người ta. Gặp hôm khí trời rét quá, bốn bề không còn ai, trời càng tối dần, bà nằm trên đống thổ phụ thuộc xã Lạc Đạo, sau rét quá, không về được, mẹ ông nằm chết tại đó, liền bị mối đùn phủ kín. Lúc đó ông còn nhỏ quá, ông chỉ được người ta bảo cho biết về việc mẹ chết. Sau ông thi đỗ là nhờ ở ngôi đất này. Nhân đi qua xem cái huyệt đó, bề ngoài thấy khoảng đất không cao lắm, ở vào khu ruộng trũng, có một chỗ đất đột khởicao hẳn lên, một con đất hình mộc nằm ngang, hai cái bút đứng thẳng. Nếu vẽ cũng không thể khéo được như vậy”.
4. Sách Lịch - Triều Hiến Chương Loại Chí:
Do Phan Huy Chú soạn vào khoảng năm 1820, là Bộ Bách Khoa Sử Ký về Việt Nam công phu nhất . Bộ Giáo Dục xuất bản, Nguyễn Thọ Dực dịch ra Việt văn, trong đó xếp cụ Tổ vào bậc "Đức Nghiệp Chi Nho", sau cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sách gồm có hai phần:
- Phần chữ Hán, tập Nhân Vật Chí, quyển XI có ghi từ tờ 15b đến 18a
- Phần tiếng Việt từ trang 157 đến 161 có ghi như sau:
TRẦN VĂN BẢO
Ông người làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy (Nam Định), năm 27 tuổi, đỗ đầu Tiến sĩ nhất giáp (tức đỗ Trạng nguyên) khoa Canh Tuất (1550) niên hiệu Cảnh Lịch thời Mạc-Phúc-Nguyên. Ông đổi tên là Văn Tuyên, đi sứ Trung Quốc đầu niên hiệu Diên Thành triều Mạc Mậu Hợp. Ông làm Thượng Thư, tước Nghĩa Sơn Bá năm Tân Tỵ (1581) thăng Thượng Thư Bộ Lại, được vào hầu giảng ở Tòa Kinh Diên.
Nhân thấy chính sự nhà Mạc ngày càng rối bét, ông từ không nhận chức, dâng sớ nói rằng: "Giữa khoảng Trời và người giao cảm lẫn nhau, có các điểm ứng hiện theo từng loại: Việc làm hay thì ứng điểm lành, việc làm dở thì ứng tai hoạ