GIA

PHẢ

TỘC

Nguyễn
Tộc
Phú
Triêm
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
PHẦN I: Giới Thiệu Nguồn Gốc Gia Phả Tộc Nguyễn Văn Phú Triêm


Trên khắp mọi nẻo đường đất nước, không có mảnh đất nào là không có dấu chân của Tiền nhân trong sự nghiệp mở nước và dựng nước. Quảng Nam là vùng đất của nhiều dòng họ từ phương bắc vào khai cơ lập nghiệp, bắt đầu từ thời nhà Hồ, nhà Hậu Lê, nhà Mạc và nhiều nhất là từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá và mở mang bờ cỏi ở phương Nam của các chúa Nguyễn trong đó có Thái Thuỷ Tổ Nguyễn Văn Phú của chúng ta.
Trái qua gần 300 năm xây dựng cơ nghiệp ở Phương Nam, bao thế hệ Tiền Nhân đã không quản ngại khó khăn, gian lao, khổ nhọc để khai sơn phá thạch gầy dựng nên dòng họ Nguyễn Văn Phú Triêm chúng ta đến ngày hôm nay.
Theo Gia Phả còn lưu lại thì quê quán của Thuỷ Tổ ở xã Nguyệt Viên, Tổng Từ Quang, Huyện Hằng Hoá, Trấn Thanh Ba. Ngài xuất thân là quan ngự y dưới triều Vua Dụ Tông (1705-1729) trong chuyến hộ tống Hoàng Đế tuân du vào Nam, ngài đã lưu lại vùng đất Quảng Nam này để lập nghiệp. Trong giai đoạn đầu thì Người cư ngụ tại xã Mông Lãnh, Phủ Thăng Hoa được hơn 30 năm, cả Tổ Phụ Tổ Mẫu, Thúc bá huynh đệ đều từ trần tại đó, có lẽ vùng đất thời ấy còn hoang sơ đầy chướng khí và bệnh tật, do đó các vị Tổ đời sau đã di chuyển về vùng hạ lưu sông Trường Giang (sông Thu Bồn) đất đai màu mỡ, khí hậu hiền hoà cùng các dòng họ khác như: Dương, Lê, Đinh, Nguyễn Trương, Đỗ .v.v. đã ra sức khai khẩn vùng đất Phú Triêm này để xây dựng cơ nghiệp mới. Đến đời Cảnh Hưng mới chế ngự sông Trường Giang, cắm một mốc phân chia địa giới làng xã và lập sổ bộ kiềm tra đất đai lưu lại cho thế hệ mai sau. Về mốc thời gian Thuỷ Tố vào Nam và di dời về Phú Triêm năm nào? không có tư liệu ghi rõ , qua ký ức lưu lại của vị Tổ Nguyễn Văn Chiêu đời thứ 5 ghi lại trong Gia Phả rất hạn chế “Hiển Tổ vi Xuất Thanh Ba trấn , Hoằng Hóa huyện , Từ Quang Tổng , Nguyệt Viên xã , Chi Tìm Tông, phụng chỉ Lê Triều Dụ Tông Hoàng Đế Kinh Hạnh Nam Thiên. Dự Tổ nãi Trạch địa trú Quảng Nam Dinh, Thăng Hoa Phủ, Mông Lãnh Xã, lữ thứ kỷ tam thập dư niên.
Sau ngày đất nước thanh binh (1975), qua nhiều năm tìm kiếm lần theo những địa danh trên, được sự thống nhất của Hội Đồng Gia Tộc(HĐGT), Ban Biên Tập(BBT) chúng tôi đã tìm về vùng đất Tổ ở Thanh Hóa, nay là thôn Nguyệt Viên xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, sau nhiều ngày lưu lại tìm kiếm nhưng vẫn không phát hiện ra dấu vết của Tổ Tiên ta, một phần vì chiến tranh ly loạn, nhiều Gia Phả bị thất lạc, hư hỏng, một phần Gia Phả tộc ta không ghi rõ ngọn nguồn của Thuỷ Tổ chúng ta ở tại quê nhà để đối chiếu và tra cứu. Qua sách thì tên làng xã Thanh Hóa và những tư liệu mới phát hiện thì làng Từ Quang thuộc xã Hoằng Long hiện nay (gần cầu Hàm Rồng) có lẽ nào Gia Phả tộc ta ghi nhầm là Tổng Từ Quang và dòng họ Nguyễn Văn của chúng ta gốc tích ở đó chăng? Hẹn một ngày không xa tốc ta sẽ cử người về Thanh Hoá tiếp tục sưu tầm thêm về lịch sử cội nguồn của Tổ Tiên.
Ngoài việc tìm về vùng đất Thanh Hoá, qua ban liên lạc dòng họ Nguyễn ở Quảng Nam – Đà Nẵng, BBT còn tìm đọc quyển Gia Phả Nguyễn Tộc Tôn Thân quan hệ đẳng phái gồm 106 chi họ Nguyễn Quảng Nam – Đà Nẵng viết vào năm Duy Tân thứ 5 (1911) và quyển Hợp Phả, do Bộ Hộ thượng thư Quỳnh Sơn Hầu Nguyễn Lữ viết vào năm 1515 cũng nhưng nhiều Gia Phả của các dòng tộc Nguyễn ở Quảng Nam – Đà Nẵng, để tìm hậu duệ tổ Nguyễn Văn Công trong đó có Gia Phả dòng họ Nguyễn Tường ở Cẩm Phô Hội An để tìm lại lai lịch cụ Nguyễn Tường Phổ người biên soạn Gia Phả cho Tộc ta. Tại đây có nhiều tư liệu và hành trạng của nhiều vị tên tuổi ở các vùng, trong đó có bài viết về Tổ Nguyễn Văn Chiêu của tộc ta, còn bài mở đầu Gia Phả tộc ta thì không tìm thấy. Qua tìm hiểu tư liệu thì năm sinh và năm viết Gia Phả có sự nhầm lẩn chúng tôi sẽ phân tích ở phần sau.
Như vậy từ quyển Gia Phả được dịch ra chữ Quốc Ngữ do ông Nguyễn Ngọc Anh thực hiện năm 1985 đến nay tộc ta chưa phát hiện được gì mới. Quyển Gia Phả lần này chúng toi bổ sung thêm một số con cháu đời thứ 10,11 và kê khai thêm đời thứ 12,13 đồng thời bổ sung mốt số ông bà trước và trong chiến tranh bị lưu lạc nay có điều kiện tìm được, nhưng cũng còn một số ông bà đời thứ 9,10 vẫn chưa tìm được, BBT sẽ ghi rõ ở phần sau để con cháu các vị quan tâm tìm kiếm bổ sung thêm.
Nhìn chung qua hai lần tu chỉnh Gia Phả gần đây (1985-2005) BBT đã cố gắn cải tiến cách ghi chép và trình bày để bà con ta dễ đọc, dễ hiểu và dễ đối chiếu như: ghi danh số, thứ hệ, tông đồ từng chi nhánh trực hệ, tiểu sử mỗi đời cũng được ghi chép cẩn thận, nguồn gốc các bà Dâu và các bà Cô được kê khai rõ ràng, năm sinh năm mất, ngày kỵ cũng được thể hiện, rõ nhất là các vị đời thứ 9 trở lại. Qua phần tóm tắt tiểu sử người đọc hiểu được ông bà, cha mẹ mình sinh ra ở đâu, học hành ra sao? Làm nghề gì? sự chuyển dịch làm ăn sinh sống từng giai đoạn, nhờ đó con cháu đời sau nhận biết về Tổ Tiên Ông Bà mình rõ ràng hơn.
Sau chuyến đi Thanh Hoá về BBT cũng tập hợp được một số tư liều để viết về vùng đất cội nguồn Thanh Hoá và vùng đất lập nghiệp của dòng họ ta ở Quảng Nam. Bài viết chỉ thể hiện tóm lược về vùng đất, con người và nền văn hoá lịch sử của từng thời đại con cháu chúng ta hiểu được với phạm vi của một Gia Tộc, về nguồn gốc của quyển Gia Phả và xuất xứ của Thuỷ Tổ chúng ta, BBT thống nhất như bài viết của ông Nguyễn Ngọc Anh (1985) chỉ nói thêm về năm sinh cụ Nguyễn Tường Phổ và năm viết Gia Phả của tộc ta. Ở đây cũng xin đính chính lại phần sinh hạ của Tổ Nguyễn Văn Công và địa danh xã Mông Lãnh Quế Sơn, có lẽ phải truy tầm ra bảng Gia Phả gốc thì mới sáng tỏ mọi điều vì hầu như các bảng sao chép sau ngày đình chiến(1954), trong số 06 bản thì có 04 bản giống nhà ông Dinh(Đề) về phần mộ 16 vị ở Mông Lãnh đã di dời về Phú Triêm có ghi rõ danh tánh từng Mộ chủ và vị trí an tang và năm Tổ ta vào Nam ghi đời Vua Dụ Tông(1705-1728), còn quyển nhà ông Tồn (Nhu) thì ghi đời vua Hiển Tông (1740-1786). Về phần mộ ghi 15 vị và vị trí an tang. Riêng quyển nhà ông Truyện ghi đời Vua Thánh Tông(1460-1497) thì ghi chi tiết cụ thể hơn. Như vậy về năm Thuỷ Tổ ta vào Nam có 03 qyuển ghi 03 thời kì khác nhau, phần lịch kê cũng ghi chưa chính xác, BBT sẽ nêu lên ở phần sau để con cháu tìm hiểu rõ ràng, về những quy định Tế Tự hằng năm, quy linh, trùng tu bia mộ, xây dựng và di dời Từ Đường năm 1995, cùng với công sức đóng góp của con cháu Nội Ngoại từng giai đoạn, xây dựng và phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài, biểu dương các cháu có thành tích cao trong học tập và thành đạt trong cuộc sống. BBT sẽ nêu lên để con cháu mai sau trân trọng , giữ gìn và phát huy.
Đây cũng là sự quyết tâm cao của HĐGT, được bà con nội ngoại động viên, góp ý, BBT đã cố gắn trong nhiều năm lập mẫu kê khai, soạn bản thảo và gửi đến từng gia đình để phổ biến, đôn đốc, đối chiếu và điều chỉnh, nhưng kết quả không như mong muốn, có gia đình chúng tôi đi lại nhiều lần, nhất là phần tiểu sử bản thân, cha mẹ, ông bà còn rất hạn chế, những năm gần đây anh Nguyễn Chính(con trai ông Nguyễn Văn Thiên) đã rất tâm huyết với cội nguồn Tổ Tiên nên đã lập nên một trang Web NGUYENTOC VIETNAM GIAPHA.COM, nhưng cũng chưa phát hiện được gì. Để thực hiện được ý nguyện của toàn Gia Tộc về một quyển Gia Phả có quy mô hơn, phong phú hơn như một quyển Gia Sử đòi hỏi các thế hệ nối tiếp quan tâm sư tập bổ sung nguồn tư liệu, nhất là tìm ra quyển Gia Phả gốc của tộc ta thì mới mong thực hiện được.
Do còn hạn chế nhiều mặt nên quyển Gia Phả ấn hành lần này không tránh khỏi thiếu sót, chưa thoả mãn ý nguyện của toàn Gia Tộc, kính mong các vị cao niên, cao thế bà con thân tộc chỉ giáo và góp ý xây dựng.
Viết Gia phả, đọc Gia Phả và trân trọng giữ gìn Gia Phả là việc làm có tính thừa kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia Tộc đời nào cũng có người tâm huyết, miết mài ghi chép, sưu tầm và bảo tồn cho Gia Tộc nguồn sử liệu vô giá, quan tâm việc “vấn tổ tìm tông” nhờ đó mà chúng ta biết được cội nguồn của dòng họ, các hệ, phái, chi, nhánh rõ ràng, thứ bậc trên dưới được phân minh, nhất là không để phần Tổ Tiên Ông Bà xiêu lạc, con cháu thất tích, lạc tông, tình huyết thống máu mủ được gắn bó, con cháu hết lòng chăm lo xây dựng dòng họ ngày càng đơm hoa kết trái và luôn trường tồn cùng sông núi, trời đất, chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước công đức cao dày của Liệt Vị Tiền Nhân.

Mùa đông năm Ất Dậu (2005)
Ban Biên Tập
PHẦN III: Quảng Nam Vùng Đất Gầy Dựng Nên Dòng Họ Nguyễn Văn Phú Triêm


Sau vùng đất cội nguồn Thanh Hoá Quảng Nam là vùng đất của nhiều dòng họ từ phương bắc vào khai khẩn trong nhiều thế kỷ, trong đó có dòng họ Nguyễn Văn của chúng ta. Trải qua gần 300 năm với 14 thế hệ nối tiếp các Hậu Duệ của Thuỷ Tổ Nguyễn Văn Phú đã kế thừa sự nghiệp của Tiền Nhân ra sức xây dựng và phát triển vùng đất này. Tự hào với ngôi Từ Đường uy nghi và bề thế, toạ lạc trên vùng đất Phú Triêm, nơi dừng chân lần thứ hai trên chặng đường lập nghiệp củaTổ Tiên ta (sau hơn 30 năm cư trú ở Mông Lãnh).
Với chiều dài lịch sử đầy tự hào của người dân Quảng Nam nói chung và dòng họ Nguyễn Văn chúng ta nói riêng, BBT xin được tóm lược quá trình khai sơn phá thạch, hình thành và phát triển vùng đất phên dậu của Đại Việt đồng thời cũng là vùng đất Yết Hầu của xứ Thuận Quảng từ thế kỷ XIV, như để ghi nhận công lao của tiền nhân chúng ta trong sự nghiệp mở cỏi.
Quảng Nam nguyên là đất của Châu Ô, Châu Lý được sáp nhập vào Đại Việt qua cuộc nhân duyên của hai quốc gia Chămpa và Đại Việt bằng cuộc hôn nhân của Huyền Trân Công Chúa và Vua Chế Mân vào năm 1306. đến năm 1307 thì nhập hai châu vào lãnh thổ Đại Việt Vua Trân Nhân Tông đã thay đổi Châu Ô thành Thuận Châu và Châu Lý là Hoá Châu. Sau khi vua Chế Mân qua đời các Vua Chămpa nối ngôi đều tìm cách lấy lại vùng đất đã dâng sính lễ trước đây. Năm 1402 vau Chămpa là BaĐích xua quân xâm lấn vùng biên giới, Hồ Hán Thương đêm quân đánh dẹp, Vua Chămpa thất trận buộc phài nhường phần đất Chiêm Động và Cổ Luỹ để đổi lại việc rút quân của Hồ Hná Thương. Nhà Hồ đặt bốn châu:Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và huy động dân Thanh Nghệ Tĩnh vào khai phá vùng đất này nhưng chưa được bao lâu thì nhà Minh xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ bị thất bại thì vùng đất này quân Chiêm Thành chiếm lại, mãi đến năm 1471 sau nhiều lần quân Chiêm xâm lấn vùng biên giới gây binh đao loạn lạc , Vua Lê Thánh Tông thống lĩnh 26 vạn quân tinh nhuệ đành đuổi quân Chiêm đến kinh đô Đồ Bàn thì bắt sống Vua Chiêm là TràToàn thu hồi lại phần đất Thăng Hoa,Tư Nghĩa từ đời nhà Hồ. Sau cuộc chinh phạt thắng lợi Vua Lê Thánh Tông chiếu lập Đạo ThừaTuyên Quảng Nam, quản lãnh ba phủ Thăng Hoa,Tư Nghĩa, Hoài Nhơn tương ứng với ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay. Đến năm 1490 đổi thành xứ Quảng Nam rồi trấn Quảng Nam năm 1520, năm 1602 đời Gia Dụ Nguyễn Hoàng đổi là Dinh Quảng Nam lập hành dinh ở Cần Húc và sau là Thanh Chiêm đồng thời tách huyện Điện Bàn ra khỏi Thuận Hoá và nâng thành Phủ Điện Bàn nhập vào Dinh Quảng Nam .
Năm 1611 quân Chiêm Thành cướp phá vùng biên giới phái nam, Chúa Nguyễn Hoàng phái chủ sự Văn Phong đem quân vượt Đèo Cù Mông đánh lui quân Chiêm đến vùng núi Đại Lãnh (núi Đá Bia) lập ra phủ Phú Yên quản lãnh hai huyện Đông Xuân và Tuy Hòa, sáp nhập vào Dinh Quảng Nam. Đây là cuộc Nam tiến đầu tiên của các Chúa Nguyễn. Như vậy chặng đường từ thành Đồ Bàn (1471) đến núi Đá Bia(1611) quân Đại Việt đã phải đi ngót 140 năm, đến năm 1629 phủ Phú Yên được tách ra khỏi Dinh Quảng Nam để lập Dinh Trấn Biên.
Từ năm 1774- 1801, nhà Tây Sơn cai quản vùng đất này đổi thành Đạo Quảng Nam. Sau khi lên ngôi 1802 Vua Gia Long cải tổ hành chánh trong cả nước, Dinh Quảng Nam được chia thành bốn Dinh:
- Hai Phủ Điện Bàn và Thăng Hoa được tách ra khỏi Dinh Quảng Nam(lớn) lấy tên là Dinh Quảng Nam (nhỏ).
- Phủ Tư Nghĩa đặt thành Dinh Quảng Ngãi
- Phủ Hoài Nhơn đặt thành Dinh Bình Định
- Phủ Phú Yên đặt thành Dinh Phú Yên
Năm 1806 các huyện Tân Phước, An Nông, Hoà Vang và Phú Châu nhập vào Dinh Trực Lệ ( kinh sư Huế)
Năm 1827 lại đổi thành Trấn Quảng Nam( bỏ trực lệ)
Năm 1832 đời Minh Mệnh thứ 13 đổi thành Tỉnh Quảng Nam, kêm hạt cả Quảng Ngãi và hai Ty Bố Chánh và Án Sát.
Năm 1915 dưới thời Pháp thuộc tỉnh Quảng Nam có ba phủ: Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ và bồn huyện Duy Xuyên, Đại Lộc, Hoà Vang, Quế Sơn, trong đó Thành Phố Đà Nẵng là đất nhượng địa, còn Quảng Nam là đất thuộc địa.
Năm 1962 chính quyền Sài Gòn chia Quảng Nam thành hai tỉnh là Quảng nam và Quảng Tín bỏ cấp Phủ, Huyện, Tổng chia ra thành Quận, Xã, Thôn.
Năm 1975 thống nhất đất nước hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín hợp thành Quảng Nam Đà Nẵng.
Năm 1997 tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng được tách ra thành Tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng trực thuộc trung ương.
Các Phủ Huyện này chỉ duy trì từ thời Lê Sơ đến thời nhà Mạc (1471-1592) nhưng đến thời Lê Trung Hưng và nhà Nguyễn lại thay đổi khá phức tạp, qua các nguồn sử liệu khác nhau, nhưng ở đây là những dữ liệu cần thiết để chúng ta sưu tầm và thẩm định lại các địa danh hành chính đương thời như Phủ Thăng Hoa đổi thành Phủ Thăng Bình, Huyện Mộ Hoa đổi thành huyện Mộ Đức, Huyện Duy Xuyên, Huyện Diên Khánh đổi thành Huyện Diên Phước. v.v. Thời kỳ này (1822) Huyện Diên Khánh có 10 tổng gồm: Đại An Thượng, Mỹ Hoà Trung, Hạ Nông Trung, An Thái Thượng, Phú Khương, An Nhơn, An Lưu, Phú Triêm Hạ, Đa Hoà Thượng và Thanh Quất Trung.
Ngoài vị trí phên dậu của Đại Việt Quảng Nam còn là đất yết hầu của xứ Thuận Quảng, là địa bàn trọng yếu về chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao các Chúa Nguyễn đàng trong với vị trí Dinh Trấn Thanh Chiêm, dựa vào địa thế sông chợ củi hợp lưu của ba nguồn Thu Bồn, Chiên Đàn và Ô Gia, hai bên có hai cửa biển lớn là Cửa Hàn và Cửa Đại, đường quan lộ Bắc Nam các Chúa cho xây căn cứ quân sự hùng hậu tại Dinh Trấn Thanh Chiêm gồm Thuỷ, Bộ, Tượng Binh đủ sức hổ trợ cho việc Trấn Bắc Bình Nam và phòng thủ biển đảo. Năm 1644 dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Phúc Tần thuỷ quân của ta đã đánh trả cuộc tấn công của ba tàu chiến thuộc hàm đội Hà Lan đã xâm phạm vùng biển Hội An và Nại Hải. Trong 7 lần xâm lấn ở mạn Bắc của Quân Trịnh vào các năm 1633,1648,1651,1656,1660,1672 các chúa Nguyễn đều phải điều động quân của Dinh Trấn Quảng Nam để đánh trả, nổi bậc là chiến công do Nguyễn Phúc Tần chỉ huy (1648) đánh đuổi quân Trịnh đến Nghệ An bắt sống ba vạn tù binh đưa vào khai phá vùng đất Quảng Nam và Dinh Trấn Biên. Tiềm lực quân sự của đạo quân Quảng Nam luôn hổ trợ đắc lực xuyên suốt trong giai đoạn lịch sử Nam tiến của các Chúa Nguyễn. Bắt đầu từ năm 1611 đến 1708 Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu dâng đất Hà Tiên và hoàn thành công cuộc Nam tiến mở rộng bản đồ Đại Việt đến Mũi Cà Mau vào năm 1757.
Đến thời tây Sơn 1778 – 1801 đội quân bách chiến bách thắng này cũng được nhà quân sự thiên tài Nguyễn Huệ chọn Quảng Nam làm địa bàn chiến lược để Nam chinh Bắc chiến theo đuổi sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước trong đó có công lao to lớn của các Danh Tướng Quảng Nam đã kề vai sát cánh cùng chủ soái đánh tan 2 vạn thuỷ binh và 300 chiếc thuyền của quân Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút năm 1784 và 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh cũng tan tát vào năm Kỷ Dậu (1798).
Sau khi lên ngôi vua Gia Long đã xây dựng tại Quảng Nam nhiều căn cứ quân sự để phòng thủ vùng biển trọng yếu như : Cửa Tấn, Thành Điện Hải, Đồn An Hải, Pháo Đài Đinh Hải, các vua Minh Mạng và Tự Đức tiếp tục cũng cố và bố phòng ở dọc bờ biển. Trong giaiđoạn Pháp xâm lược (1858) đến thời kỳ Mỹ đổ quân vào Miền Nam (1965) cũng xây dựng tại đây một căn cứ Hải Lục. Không quân lớn nhất Miền Trung.Sự phồn vinh của Quảng Nam chưa đầy 200 năm, thì năm 1773 Tây Sơn khởi nghĩa chiến tranh liên tục nổ ra ở Quảng Nam,Dinh Chiêm và Hội An nhiều lần thay đổi chủ. Năm 1833 Vua Minh Mạng cho dời tỉnh ly đến thành La Qua, bây giờ Dinh Chiêm chỉ còn là Phủ Ly của Điện Bàn, sông chợ củi cũng bồi lấp không còn thuyền neo đậu, Hội An và Thanh Chiêm trở nên vắng lặng, thương nhân chuyển hướng vào Nam Bộ và ra Đà Nẵng để buôn bán.
Khi trở lại Thuận Quảng Nguyễn Hoàng đã có tầm nhìn chiến lược về xây dựng và mở mang vùng đất Thuận Quảng đặc biệt là Quảng Nam, sau chuyến vượt đèo Hải Vân tuần du vào Thăng Hoa nhìn vùng đồng bằng rộng lớn với hệ thống sông ngoài chằn chịt hằng năm sẽ được tô bồi bởi một lượng phù sa màu mở. Bằng việc khẩn hoang lập ấp phát triển nông nghiệp, khai thác lâm thổ sản, chăn nuôi và đánh bắt, bên cạch đó các làng nghề cũng phát triển đa dạng như: dệt lụa, đúc đồng, gốm sứ, chạm trổ, điêu khắc, chiếu lác .v.v. Đặc biệt là việc mở rộng thương cảng Hội An, đặt quan hệ giao thương với các nước Châu Á,Tây Âu, với lượng hàng hoá dồi giàu thuyền buôn tấp nập, phố xá sầm uất. Trong Phủ Biên Tập Lục Lê Quý Đôn đã viết: “ Thuận Hoá không có nhiều của cải, hàng hoá đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam đất đai phì nhiêu nhất thiên hạ, người Thăng Hoa, Điện Bàn biết đệt vải, lụa lĩnh đủ màu sắc khéo đẹp chẳng kém lụa Quảng Đông, ruộng đồng rộng rải, gạo lúa, trầm hương, sừng tê giác, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai , ốc, bông vải, đường mật, dầu sơn, hồ tiêu, cá, yến sào, gỗ lạc đều sản xuất ở đây” nói về Quảng Nam Chúa Nguyên Hoàng nhận xét”xư Quảng đất quảng chúa Nguyễn Hoàng nhận xét”xứ quảng đất tốt dân đông sản vật giàu có,số thuế thu vào nhiều hơn đất Thuận Hoá mà số quân cũng bằng quá nữa.” Với đường lối ngoại giao rộng mở, bộ máy hành chánh được cải tổ ,các chúa Nguyễn đặt các mối quan hệ thông thoáng ưu đãi về thuế quan,các thương nhân người Hoa,người Nhật, người Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha đến mở rộng quan hệ buôn bán. Đường lối kinh tế ngoại giao của Quảng Nam các Chúa Nguyễn còn vận dụng liên tục trong suốt thời kì khai khẩn và mở rộng ở Miền Nam trong đó người Quảng Nam là nồng cốt.
Vùng đất Quảng Nam được hình thành từ nhiều nền văn hoá Tiền Sa Huỳnh, văn hoá Bầu Dũ có niên đại khoảng 6000 năm, di tích văn hoá tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh có niên đại trên 3000 năm. Ngoài ra các văn bia, văn chỉ và các đình làng, từ đường của các dòng tộc rải rác trên khắp vùng Quảng Nam. Đã chứng tỏ họ là những cư dân từ phương Bắc vào lập nghiệp từ thời nhà Hồ, nhà Mạc và nhiều nhất là từ khi Nghuyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá(1558).Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội quan lại, binh lính, người giàu có, người nghèo, kể cả tội đồ và tù binh họ đến hợp cư cùng người bản địa ChămPa.Tiếp đến là người Minh đi lánh nạn nhà Thanh và thương nhân người Hoa,người Nhật đến buôn bán và người Phương Tây đến truyền giáo,họ mang đến những kiến thức khoa học như: Thiên Văn học, Toán học và Y học v..v..Thanh Chiêm Hội An còn là nơi sản sinh ra chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh do giáo sĩ người Pháp Alexan DreRhodes biên soạn lại và in thành hai cuốn sách được xem là hai công trình duy nhất về chữ Quốc ngữ của nước ta.
Hiện nay, nhiều di tích lịch sử văn hoá ở Quảng Nam được nhà nước và thế giới quan tâm trùng tu như:Thánh Địa Mỹ Sơn, Tháp Chiên Đàn, Tháp Bàng An, phố cổ Hội An cùng nhiều đình chùa và khai quật nhiều di chỉ khảo cổ được tìm thấy ở xã Tam Xuân huyện Núi Thành và nhiều nơi ở Quảng Nam nhằm làm sáng tỏ nền văn hoá của vùng đất Địa Linh Nhân Kiệt. Năm 1999 Hôi An và Bắc Mỹ Sơn được Unessco công nhận là hai di sản văn hoá thế giới.
Kể từ năm 1485 cư dân Quảng Nam đã ổn định Nhà Nước bắt đầu thu tô thuế ruộng đất và nhân đinh.Vua Lê Thánh Tông còn cho phép con trai từ 15 tuổi trở lên ham học thì đến kỳ thi hương.Hai ty là Thừa Ty và Hiến Ty cùng lựa chọn lập danh sách sung vào sinh đồ bản phủ để chờ ứng thí. Như nêu ở trên người Quảng Nam hội tụ từ nhiều nền văn hoá, giao thoa với nhiều cộng đồng dân tộc,nhiều sắc thái, đất đai núi sông hội tụ nhiều anh tài hào kiệt đã làm nên một Quảng Nam quốc hùng mạnh suốt gần hai thế kỷ.Với bản chất cần cù sáng tạo và ham học hỏi người Quảng Nam đã thành đạt trong khoa cử.Chỉ tính thời nhà Nguyễn thì Quảng Nam đã có tới 39 bậc đỗ đại khoa, trong đó có một hoàng giáp,14 tiến sĩ, 24 phó bảng và 254 cử nhân. Không ít các vị này đã gánh vác sứ mạng lịch sử dân tộc như:Phạm Phú Thứ, Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh,Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng,Trần Dư, Nguyễn Duy Hiệu..v..v.Trong khoa Mậu Tuất(1898) có 5 vị đỗ tiến sĩ và phó bảng được Tổng Đốc Đào Tấn phong tặng Ngũ Nhung Tế Phi, phát huy tinh thần hiếu học Quảng Nam còn có Tứ Hùng,Tứ Hổ và Tứ Kiệt. Ngoài ra nhiều dòng tộc cũng nổi tiếng về khoa thi cử như tộc Phan Bảo An, tộc Hoàng ở Xuân Đài tộc Phạm ở Đông Bàn v..v..
Về giáo dục ở Thanh Chiêm có trường tỉnh do Đốc Học phụ trách, nơi đây còn lập văn miếu thờ Khổng Phu Tử để xiểng dương việc học, ở các phủ có trường Phủ do Giáo Thọ phụ trách, ở các huyện thí có trường Huyện do Huấn Đạo phụ trách,nhiều phủ huyện cũng xây Văn Từ hoặc Văn Chỉ. Vào thế kỷ XX,phong trào Duy Tân ra đời cổ vũ các Sĩ phu và nhân dân lập trường Tân Học như trường Phước Bình, Phú Lâm,Diên Phong. Cụ Phan Chu Trinh đã dương cao ngọn cờ Duy Tân: “Chấn Dân Khí, Khai Dân Trí, Hậu Dân Sinh” khẩu hiệu ấy đã dẫn dắt dân tộc ta đi suốt chặng đường đấu tranh giành độc lập cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Quảng Nam còn có các danh nhân văn hoá Nguyễn Hiển Dĩnh nhà soạn tuồng ở An Quán, Tống Phước Phổ và Đào Tấn người Bình Định gốc Quảng Nam.Là những tác giả các tuồng cổ Việt Nam nổi tiếng dưới triều Nguyễn,về mặt văn hoá nghệ thuật Quảng Nam có 3 trung tâm hát tuồng là Khánh Thọ, Đức Giáo và An Quán. Ngoài ra, trong dân gian còn phát triển dân ca, hò Quảng, Bài Choài, hát tuồng trong các dịp lễ hội ngày mùa.
Nhìn lại chặng đường lịch sử khai mở của dân tộc ta ở Phương Nam thì Quảng Nam là vùng đất bàn đạp đầy tiềm năng kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao.Trong đó vai trò Dinh Trấn Thanh Chiêm như một đại bản doanh, nơi hoạch định và thử nghiệm mọi chủ trương đường lối của các Chúa Nguyễn trong công cuộc trấn Bắc Bình Nam và mở rộng bờ cõi.
Kế thừa sức sống mãnh liệt của Tổ Tiên để lại, con cháu dòng họ Nguyễn Văn chúng ta trên khắp mọi miền đất nước không ngừng phấn đấu học tập và lao động để xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn như mong ước của Tiền Nhân từ bao đời đối với vùng đất nặng nghĩa tình này


Tư liệu: Năm trăm ba mươi năm Mùa Đông,năm Ât Hợi(2005)
Danh Xưng Quảng Nam Ban Biên Tập




































Phần II: VÙNG ĐẤT CỘI NGUỒN THANH HOÁ

“Cây có cội mới có cành xanh tốt,
Nước có nguồn mới có bể cả sông sâu”
Trải qua gần 300 năm Tổ Tiên ta lập nghiệp ở Phương Nam con cháu chúng ta chưa có dịp tìm về vùng đất cội nguồn Thanh Hoá. Theo Gia Phả Tộc Nguyễn Văn Phú Triêm còn lưu lại “ Hiển Tổ vi xuất Thanh Ba Trấn, Hoằng Hoá huyện, Từ Quang Tổng, Nguyệt Viên xã. Phụng chỉ Lê triều Dụ Tông Hoàng Đế Hạnh Nam Thiên, nay là thôn Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
Sau nhiều năm trăn trở và tìm kiếm, tháng 5 năm 1999 BBT được Gia Tộc cử về Thanh Hoá tìm lại vùng đất cội nguồn của Tổ Tiên dòng họ. Theo tư liệu còn lưu lại thì tỉnh Thanh Hoá ngày xưa là đất của Bộ Cửu Chân một trong 15 Bộ của đất nước. Các vua Hùng đứng đầu mỗi Bộ là Lạc Tướng, từ đó đến khi có tên gọi tỉnh Thanh Hoá cũng đã nhiều lần thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử của từng Triều Đại, theo sách tên làng xã Thanh Hoá tập 1 thì trong các thời kỳ Bắc thuộc có tên gọi quận Cửu Chân hay Aí Châu đến năm 1111 thời nhà Lý đổi thành phủ Thanh Hoá. Thời nhà Trần,nhà Hồ có lúc đổi thành phủ Lệ hay Trại. Đến thời nhà Lê Sơ năm 1466 gọi là Thanh Hoá Thừa Tuyên rồi Thanh Hoa Thừa Tuyên vào năm 1469 đời Lê Thánh Tông. Đến năm 1490 đổi thành Thanh Hoá xứ. Thời Lê Tương Trực(1509- 1516) là Thanh Hoa Trấn. Thời Lê Trung Hưng(1553 – 1788) gọi là Thanh Hoa Nội Trấn. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi thành tỉnh và đến năm Thiệu Trị thứ 3(1843) do kiêng huý nên đổi thành tỉnh Thanh Hoá cho đến ngày nay.Trong quá trình thay đổi tên gọi từ quy mô cấp tỉnh thì địa giới và tên gọi các Phủ Huyên Châu, Thị xã cũng bị thay đổi ít nhiều. Ngày nay,tỉnh Thanh Hoá có 11 huyện thị xã và một thành phố.
Vùng đất Thanh Hoá còn có những địa danh lịch sử văn hoá tiêu biểu và dòng sông Mã oai hung. Sông Mã bắt nguồn từ dãy núi Puva tỉnh Sơn La chảy vòng qua tỉnh Sầm Nưa ( nay gọi là Hùa Phăn) nước Lào, rồi đổ vào vùng đất huyện Quan Hoá miền Tây Thanh Hoá. Nơi hợp lưu của Nâm Hét ,Nậm Ma, Nâm Luông và sông Mã. Với dòng chảy trên 500 km, sông Mã vượt qua 54 thác ghềnh vực xoáy ở nhưng địa hình núi non hiểm trở rồi xuôi về Hàm Rồng qua cửa Hới đổ ra biển Đông.
Con sông Mã đã ghi vào lịch sử cùng với thơ ca và những điệu hò sông Mã đã đi vào lòng người, Nào chào sông Mã anh hung của nhạc sĩ Xuân Giang hay đường về xứ Thanh của nhạc sĩ Đinh Quang Hợp, rồi đến sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi thơ của Quang Dũng v.v. Những giai điệu mượt mà sâu lắng tất cả đã phản ảnh cuộc sông lao động và chiến đấu của người dân Thanh Hoá.
Cùng với sông Mã,Hàm Rồng cũng đi vào bất tử với những chiến công oanh liệt và cảnh trí nên thơ hùng vĩ, Hàm Rồng là nơi dưng chân của bao tao nhân mặc khách.: Lê Thánh Tông, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Thượng Hiền và Tản Đà v.v. Ở động Long Quang có bài thơ tuyệt mỹcủa Nguyễn Trãi được khắc trên vách đá.
Trong lịch sử chống ngoại xâm Hàm Rồng còn ghi nhiều chiến công oanh liệt. Ở thế kỷ XIV danh tướng nhà Hồ đã chiến thắng quân Chiêm Thành, trong kháng chiến chống Mỹ quân dân Thanh Hoá đã băn rơi 116 máy bay các loại để bảo vệ cầu Hàm Rồng, huyết mạch lưu thông chi viện cho chiến trường Miền Nam.
Sông Mã Hàm Rồng là nơi hội tụ những vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên có bề dày lịch sử tiêu biểu cho nền văn hoá của dân tộc và truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trên đất nước có nhiều dòng sông, có những dòng sông nhớ mãi không nguôi, sông Mã oai hung, sông Thu lẫm liệt mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc và của những người con cùng cội nguồn sông Mã.
Huyện Hoằng Hoá thời Hùng Vương là đất thuộc bộ Cửu Chân trong thời kỳ Bắc thuộc có nhiều tên gọi và thuộc lãnh thổ khác nhau.Thời nhà Ngô, Đinh,Tiền Lê gọi là Giáp Cổ Hoằng, thời Lý đổi thành Giáp Cổ Đằng, thời Trần gọi là Huyện Cổ Đằng rồi Cổ Linh. Năm Quang Thuận thứ 10(1469) huyện Cổ Đằng được đổi thành huyện Hoằng Hoá thuộc phủ Hà Rung.Trong thời nhà Nguyễn, địa giới này có những thay đổi do quá trình tách ra nhập vào.Trước Cách Mạng Tháng 8 ( năm 1945) huyện Hoằng Hoá có 8 Tổng gồm: Ngọc Chuế, Bút Sơn, Bái Trạch, Hành Vĩ,Từ Minh, Dương Thuỷ, Lỗ Hương và Dương Sơn. Hiện nay huyện Hoằng Hoá có 47 xã và 2 thị trấn, theo số liệu điều tra năm 1994 thì diện tích tự nhiên là: 246.5 km2, dân số là 248.546 người.
Theo sách “Tiểu sử Thanh Hoá” thời tiền sử và sơ sử thì Hoằng Hoá là vùng đất cổ có thể có từ giai đoạn đầu của nền văn hoá Đông Sơn, tức nền văn hoá Trống Đồng. Lúc này đã có cư dân sinh sống nằm trong bộ Cửu Chân và thế kỷ VI trước công nguyên.Cho đến nay, 85 di chỉ khảo cổ học được tìm thấy ở Thanh Hoá thì có đến 35 di chỉ ở địa bàn Hoằng Hoá, ở Hoằng Vinh đã tìm thấy trống đồng loại Hê-Gơ. Đây là loại trống đồng điển hình của nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ.Xưa kia vùng đất này có tên gọi là Giáp, Sách, Động,Trung.Kẻ và sau này là LàngXã.Văn bia huyện Hoằng Hoá được dựng trên đất Hoằng Lộc,Văn Từ do cử nhân Nguyễn Huy Lịch nguyên Bố Chánh Quảng Nam biên soạn và năm Tự Đức 14 (1861).
Từ Thành Phố Thanh Hoá qua cầu Hàm Rồng xuôi về hướng đông khoảng 3 km ven theo đường đê xã Hoằng Quang nằm bên tả ngạn sông Mã đồng ruộng được hấp thụ phù sa màu mỡ, lúa khoai quanh năm tươi tốt. Xã Hoằng Quang ngày nay nguyên là xã Nguyệt Viên thuộc Tổng Từ Minh Huyện Hoằng Hoá (trong Gia Phả tộc ta ghi là Từ Quang Tổng) nhưng trong sách làng xã Thanh Hoá thì ghi là Tổng Từ Minh còn Từ Quang chỉ là một làng thuộc xã Hoằng Long hiện nay. Địa thế xã Hoằng Quang có núi Phong Châu làm án, có dòng sông Mã cuốn quanh, non sông hun đúc khí thiên, sinh trưởng nhiều nhân tài hào kiệt, nhiều danh nhân khoa bảng, cả trấn có 22 tiến sĩ trong đó có 1 Trạng Nguyên,1 Bảng Nhãn Ngô cao Lảng người Nguyệt Viên là học giả danh tiếng ở thế kỷ 19 với nhiều công trình đồ sộ như: Lê Triều Lệch Khoa, Tiến Sĩ Đề Danh Bi Ký, Bắc Kỳ Tạp Biên, Viên Trai Thi Tập,Văn Trai Văn Tâp,Thanh Hoá Dư Đồ Sự Tích Ký và Lịch Triều Tập Ký.Trong dân gian có câu” Cơm mông cống, cá quảng xương văn chương Hoằng Hoá hay Nguyệt Viên có 18 ông nghè, ông cưỡi ngựa tía ông che lọng vàng”.Xã Nguyệt Viên ngày xưa còn có tên là Phúc Châu, Nguyệt Giang và Nguyệt Nổ đến năm 1637 đổi tên là Nguyệt Viên.
Vị trí xã Hoằng Quang nằm phía nam huyện Hoằng Hoá, ngày xưa nơi đây có chợ Hôm và bến đò Nguyệt Viên qua lại thủ phủ Thanh Hoá (khi chưa có cầu Hàm Rồng). Con đường Thiên Lý Bắc Nam này là nơi giao lưu kinh tế văn hóa từ Kinh Bắc Thăng Long vào và từ Phương Nam ra. Do được tiếp thu những tinh hoa của văn hoá Bắc Nam nên quần thể dân cư đông đúc, xóm làng trù phú, phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ, con người giàu lòng nhân ái khí phách can trường thông minh và hiếu học.
Do hồn thiêng sông núi hay anh linh tiền nhân sắp đặt, một sự kiện diễn ra vào ngày 12 – 3 – 1960 tại thị xã Thanh Hóa : lễ kết nghĩa hai tỉnh Quảng Nam và Thanh Hóa được long trọng tổ chức. Trong giờ phút thiêng liêng ấy đại diện Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh nguyện kề vai sát cánh, chung sức, chung lòng chống Mỹ cứu nước. Lần lượt 226.000 thanh niên, nam nữ tỉnh Thanh Hóa lên đường vào chiến trường Miền Nam, trong đó có chiến trường Quảng Nam để chiến đấu và công tác. Từ hậu phương Thanh Hóa nhiều đợt phát động thi đua vì Quảng Nam thân yêu. Trong đó huyện Hoằng Hóa kết nghĩa với huyện Điện Bàn dấy lên phong trào : núi phân biển lúa, huyện Quảng Xương kết nghĩa với huyện Hòa Vang dấy lên phong trào : Thu Bồn dậy song, huyện Thọ Xuân kết nghĩa với huyện Quế Sơn dấy lên phong trào : Năm tấn thắng Mỹ, huyện Đông Sơn kết nghĩa với huyện Thăng Bình dấy lên phong trào : Đông Sơn Thăng Bình quyết thắng, huyện Triệu Sơn kết nghĩa với thị xã Tam Kỳ phát động phong trào : Hoàn chỉnh Thuỷ Nông, thị xã Thanh Hóa kết nghĩa với thị xã Hội An đổi tên rạp chiéu bóng thị xã thành rạp Hội An, thư viện thị xã cũng mang tên Hội An.
Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với 15 năm kết nghĩa đã tạo ra tiềm lực to lớn để hậu phương Thanh Hóa đáp ứng cao nhất và nhiều nhất yêu cầu của chiến trường Miền Nam và Quảng Nam kết nghĩa :
“Quảng Thanh chung sức diệt thù
Mối tình đoàn kết nghìn thu không mờ”
Hai câu thơ trên đã nói lên tất cả nghĩa tình sâu đậm giữa hai tỉnh Quảng Nam và Thanh Hóa. Nhìn lại chiều dài lịch sữ của tỉnh Thanh Hóa chúng ta tự hào về vùng đất cội nguồn của dòng họ. Bởi nơi đây không những là vùng đất thanh trì của các triều đại mổi khi bị các thế lực ngoại bang xâm lược kinh thành thất thủ, mà còn là hậu phương vững mạnh, cung cấp nhân tài vật lực để kháng chiến cứu quốc. Thanh Hóa cũng từng là đất dấy nghiệp nhà Hậu Lê của vị anh hung dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi với di tích Lam kinh hay Tây Đô đưòi nhà Hồ. một vùng đất oai hung đầy tiềm lực về kinh tế, chính trị và quân sự, mỗi con người Quảng Nam chúng ta luôn mang trong mình nguồn hào khí của Thanh Nghệ Tĩnh, giàu lòng nhân ái, khí phách can trường, thông minh và hiếu học.
Bao khát khao, bao ước vọng của gia tộc mong đến ngày hòa bình, hôm nay có người con của dòng họ Nguyễn Văn Phú Triêm tìm về vùng đất Tổ.Nỗi mừng vui khôn xiết như người con đi xa trở về cội nguồn của mình.Những ngày lưu lại tìm kiếm từ Hoằng Quang đến Hoằng lộc, từ Gia Phả các dòng họ Nguyễn Văn, Nguyễn Như, Nguyễn Hữu, Nguyễn Cao, Nguyễn Quang và các Gia Phả liên quan như họ Lê, Cao, Hoàng.v.v nhưng vẫn không tìm ra tung tích Tổ Tiên, vì trải qua các biến cố lịch sử và những thăng trầm của đất nước, nhiều Gia Phả gốc đã bị thất lạc, có Gia Phả chỉ ghi đựơc 5-7 đời gần nhất, còn những đời trên không tìm thấy, một phần Gia Phả tộc ta không ghi rõ gốc tích của dòng họ, còn ở tại Thanh Hoá, chẳng hạn như Ông Bà , Cha Mẹ của Thuỷ Tồ chúng ta? Anh Em còn bao nhiêu người? tên tuổi nhưng ai? để có cơ sở đối chiếu sưu tra.
Dòng sông Mã còn đây, núi Hàm Rồng còn đó, những địa danh còn ngời nét mực mà tông tích Tổ Tiên ta vần còn mờ mịt nơi đâu? Trước lúc giả từ vùng đất thân yêu này chúng con đến dâng hương tại Đình Làng Nguyệt Viên cầu xin ang linh Tiền Nhân phù trợ cho Hậu Duệ chúng con sớm tìm được cội nguồn Tổ Tiên. Và trân trọng bốc nắm đất thiên nơi này cùng lọ nước của dòng sông Mã mang về để tại Từ Đường. Đây là những kỹ vật thiên liêng, nơi hội tu những tình cả sâu đậm của con cháu muôn đời dòng họ Nguyễn Văn chùng ta. Hẹn một ngày không xa con cháu chúng ta sẽ trở về Thanh Hoá để tìm lại tung tích cảu dòng họ, Để được đốt nén nhang trước Tiên Linh TỔ Tiên sau gần 300 năm dài ly biệt.
Tình cảm và trách nhiệm này xin được đặt ra phái trước và kỳ vọng vào những chuyến hành hương với nhiều ý nghĩa to lớn và thiết thực.

Mùa thu năm Ất Dậu(2005)
Ban Biên Tập
Tài liệu tham khảo:
- Đất Quảng số 115 tháng 07/1996
- Kiến thức số 232 tháng 01/1997
- Văn Hoá nghệ thuật số 07
- Sách tên làng xã Thanh Hoá tập 01






Gia Phả Nguyễn Tộc Phú Triêm
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Nguyễn Tộc Phú Triêm.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Nguyễn Tộc Phú Triêm
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.