GIA

PHẢ

TỘC

NGUYỄN
VĂN
(Thanh
Quít
-
Điện
Bàn)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ

Nhứt dẫn: NGUYỄN VĂN TỘC Thủy Tổ Đặt tấn Kiêm Tử Bình Lộc Đại Trượng phu NGUYỄN VĂN QUÍ CÔNG KHẢI ĐỊNH niên giám sắc phong TIỀN HIỀN dực bảo trung hưng linh phò thần ư LÊ THÁNH TÔN HỒNG ĐỨC. Niên gián khâm mạng Bắc cương đồng vản nam châu chiêu dân lập xã, khai khẩn hoang nhàn, nhứt thời chế tạo, vạn cổ giang sơn tu nhơn tích đức, dỉ vi tử tôn trường cửu chi kế chánh luân phò giáo dĩ hoằng thế đợi chi qui. Phỉ hiển tại mô, phỉ nhi vô khuyết cư hồ kiêm dục minh hồ cổ, kê chư thơ tịch khởi khả hồ không soạn xuất ký vi chi Tiền hiền hiền thân thân bất năng vong giả ba kỳ trọng luân thường thiết lập phổ hệ thái sơn như Lệ huỳnh hà như đới phổ ký trường tồn dẫn cập miêu duệ thị phụng chì. BẢO ĐẠI Thập cửu niên tuế thứ Giáp thân mạnh Hạ kiết nhựt phụng kê (phổ hệ trang 5, 6 được sao và dịch theo bản Hán tự lập ngày 10-11 năm Kỷ hợi - Dương lịch ngày 09-12-1959)


Nước có nguồn, cây kia có cội

Người có nơi, đất tổ quê cha


Xem sử tộc NGUYỄN VĂN ta


Ngài NGUYỄN VĂN LỄ sinh ra chúng mình



Một khối óc thông minh sáng tạo


Một tấm gương hoài bão nghĩa nhơn


Quê hương từ Tỉnh Lạng Sơn, Lộc Bình l
à Huyện, Xã là Tri Châu



LÊ THÁNH TÔN phất cờ truyền hịch


Cuộc hành quân Nam tiến trời long


Mở mang bờ cõi đàng trong


Trống chiên giục giã Ngài xông lên đường



Cùng kết bạn Hữu, Trương, Lê, Bá và Lê Công, Phan Sĩ

Một đoàn
Tiến về Thanh Hóa, Nghệ An


Băng qua sông Mã, đèo Ngang trập trùng

Miệng xua đuổi thú rừng rình rập

Chân bộ hành khẩn cấp ngày đêm


Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên


Phú Xuân, An Cựu bình nguyên gió Lào

Thiên nhiên ấy vui nào hiệp khách

Dãy Trường Sơn động cách lối ngăn

Ngài đi đâu chịu dừng chân

Lần dò lên đỉnh Hải Vân sương mờ

Bên sóng biển vỗ bờ rào rạc

Bên rừng cao vượn hú chim ca

Hòn Chàm một dải cù lao

Trên sơn dưới thủy biết bao nhiêu tình

Đây cố địa thành kinh Chiêm Quốc

Những sông dài bờ đất uốn quanh

Xa xa cụm núi Ngũ Hành

Mờ mờ Tháp Cũ người Chàm bỏ đi



Quảng Nam đạo 
Tên ghi đồ bản
Phủ Điện Bàn, giới hạn là đây

Dừng chân nơi dải đất này

Non song gấm vóc, cỏ cây hữu tình

Bằng kết nghĩa đệ huynh thất Tộc

Chọn xóm trên làm đất định cư

Thời gian đổi mới danh từ
Xóm Trên, Tây Định y như ban đầu

Còn những vùng đất đai màu mỡ


Khai khẩn ra để tạo ruộng vườn


Đông Bình nối Cẩm Xa hương


Gò Vàng tên đặt, Trung Lương ấp này



Kìa rừng già cỏ cây hoang dại


Đây đất đồi cần phải tiến nhanh


Bổn Lương tây cận Hà Thanh
Trưng

Ghi giới hạn, địa danh rõ ràng



Rồi từ đó đặt làng Thanh Quýt


Trình huyện quan chứng chiếu hẳn hoi

Qua bao chính thể đổi dời


Tên làng Thanh Quýt sáng ngời k
hắp nơi



Việc ăn ở tạm thời ổn định


Ngài bắt đầu lo tính tương lai


Hôn nhân kết nghĩa lâu dài

Với bà Phạm Thị… quê làng Hà Thanh



Sau khi đã kết thành giai ngẫu


Ngài quay về đất Bắc thưa qua


Xin mang hài cốt cha già


Vào Nam tang tại đất nhà mới khai



Thượng - Thuỷ - Tổ - mộ ngài Thanh Tú


NGUYỄN VĂN TRINH quê cũ dời vào


Cho hay hiếu đạo đề cao


Mình đi không nỡ bỏ nào cha ông



Tình chồng vợ cảm thông từ ấy


Cảnh tông đường trông cậy vào ai


Mừng sinh độc nhất một trai
VĂN KHOA thừa tự
 mộ Ngài Bàu Bưng



Vừa ruộng rẫy, lo chừng kinh tế


Vừa học hành, thế hệ truyền lưu


Tháng ngày khôn lớn nên người


Kết duyên chồng vợ, sinh mười một con



Trong đó có năm nam, sáu nữ
Tưởng hai nam có tự mà thôi


Từ đây hai phái sinh sôi
VĂN ĐẠI phái nhất, nhì thời VĂN NAM



Ngắn dài bàn tay năm ngón đó


VĂN TRUNG ngang ngạnh bỏ quê nhà

Dứt tình rời mẹ, xa cha


Anh em thương nhớ trải qua tháng ngày



VĂN PHÒ, VĂN DIỆN trai chẳng có


Thiệt thòi số phận nỡ biết sao


Khẩu truyền hư thực thế nào


Tông đồ, phổ hệ tìm nào thấy ghi.



Cháu con không rõ đi đâu mất


Thành ra từ bấy thất lạc luôn


Tình cốt nhục hẵn đau 
buồn


Máu đào chung giọt tuồng chẳng phai



Muốn tìm kiếm đâu hay tìm kiếm


Muốn thăm dò biết hiểm nào dò


Ai ngờ tuổi nhỏ gan to


Ra đi biền biệt chẳng mò về thăm



Đường tơ vương, ruột tằm vấn vít


Nghĩa linh sơn da thịt tình nồng


May nhờ hồng phúc tổ ông


Sau ngày đại lễ khánh thành nói trên



Sự huyền diệu, khiến nên linh ứng


Cơ màu vi, luống những trễ tràng

Khiến lòng con cháu bàng hoàng


Rủ đi tìm kiếm tông đàng mình xưa



Đến tộc đường xem xong phổ hệ


Lòng hân hoan xiết kể sao đây


Đệ huynh tình cảm tràn đầy


Nhận nhìn cốt nhục từ đây trùng phùng



Ấy con cháu VĂN TRUNG ngày trước


Ngài ra đi vọng ước cao xa


Tiền hiền ở tại Quận ba


Hiện nay Mân Thái, Tân Hoà xã thôn



NGUYỄN VĂN ba phái, dòng hưng thịnh


Càng lưu truyền, chi nhánh càng đông


Mầm nhân, nhờ biết gieo trồng


Qua bao thế hệ, minh thông, lao cần



Tự hào sử tộc lần trang viết


Cũng lắm người hiền triết nho gia


Tuổi tên một thuở hùng ca


Chinh Nam, phạt Bắc, đường xa không về



NGUYỄN VĂN ĐỒ chăm bề kinh sử


Đỗ văn khoa, trước nhất vùng ta


Gần đây thế giới ngợi ca


Anh hùng VĂN TRỖI, sử nhà còn ghi



Vì sự nghiệp tiếc gì thân sức


Góp bàn tay mở nước bung dân


Đình, Chùa,Tư Lễ, Tư Văn


Quan, hôn, tang tế, hoa đăng, hội hè



Ngày tảo mộ, xuân kỳ, thu tế


Việc học hành,thi phí, sử kinh


Đàng hoàng trật tự nghiêm minh


Thuần phong mỹ tục dưới trên thuận hoà



Dòng sử tộc nôm na sau trước


Truyền thống đọng công sức người xưa


Ơn ngài nhuận gội nắng mưa


Cao như non Thái, sâu vừa bể Đông



Bốn ngàn năm, giống dòng văn hiến


Năm trăm năm, góp tiếng Tộc ta


Vì dân, vì nước, vì nhà


Chung tay tô điểm sơn hà vẻ vang



Cảnh tộc đường khi tan khi hiệp


Đến bây giờ chung nhịp hoà đồng


Mừng vui khôn tả cho cùng


Một lòng đoàn kết, không còn nọ kia



Về mộ phần xây bia đã đủ


Về tộc đường nghĩa vụ hoàn thành


Chỉ còn tình nghĩa em anh


Linh sơn cốt nhục, nhiều cành chung cây



Vợ chồng, con cái, đầy hạnh phúc


Dòng máu Người hun đúc nên ta


Xuyên từng thớ thịt làn da


Làm con, làm cháu, phôi pha sao đành



Hãy xiết chặt, tình huynh nghĩa đệ


Mới mong rằng, lấp bể dời non


Dù là một việc cỏn con


Chân tay rời rạc sao còn làm nên



Đoàn kết lại, dưới trên hoà hiệp


Thương yêu nhau, thượng tiếp hạ thừa


Lỡ khi gặp cảnh nắng mưa


Cùng nhau che chở, đừng sưa sớt lòng



Chớ học thói đèo bòng đố kỵ


Đừng đem lòng ganh tỵ dưới trên


Cơm ai sống, giống ai nên


Kẻ dưới lệch lạc, người trên dạy bày



Cần giải thích cho hay cho tốt


Nên động viên cho trót cho thông


Chim có tổ, người có tông


Ăn quả phải nhớ người trồng cây xưa



Hãy hạn chế “ say sưa nhậu nhẹt ”


Bớt tiêu xài “ phung phí xa hoa ”


Làm ăn nên cửa nên nhà


Ưu tiên nghĩa vụ ông bà phải lo



Nếu Tổ Tiên đắn đo ngày trước


Sợ đường xa, sợ bước gian truân


Suốt đời giá áo, túi cơm


Làm sao có Tộc NGUYỄN VĂN nơi này



Là con cháu nghe đây thức tỉnh


Hãy cùng nhau, trên kính dưới nhường


Chữ hoà ai cũng mến 
thương


Đức, Nhân hai chữ là gương sáng ngời



Thánh hiền xưa có lời để lại


Đến bây giờ tồn tại rõ ràng


Chứa thơ, chứa sách, chứa vàng


Không bằng âm đức tiềm tàng bên trong



Niềm hiếu đạo, những mong ai thấy


Vì tiền nhân, liệu bảy lo ba


Tâm thành tả khúc Tộc ca


Xin Ngài phò hộ cho ta mọi điều

.

*Chú thích: Với sự đóng góp ý kiến quý báu của Tộc viên NGUYỄN VĂN THANH năm Quý Mùi ( 2003 )
Tôi đã chỉnh lý bài Tộc ca “ Nhớ người xưa ” và cảm ơn ông NGUYỄN VĂN THANH và ĐẶNG ĐÌNH ĐÀM đã dịch bài Tộc ca này sang Quốc tế ngữ Esperanto.

NGUYỄN VĂN NHUNG

Gia Phả NGUYỄN VĂN (Thanh Quít - Điện Bàn)
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc NGUYỄN VĂN (Thanh Quít - Điện Bàn).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc NGUYỄN VĂN (Thanh Quít - Điện Bàn)
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.