GIA

PHẢ

TỘC

NGÔ
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
THÔNG TIN THAM KHẢO
I. Trích bài Giới thiệu Họ Ngô làng Thanh Thủy Thượng của Ngô Văn Phố, đăng trên trang Web http://www.thanhthuythuong.com ngày 01 tháng 11 năm 2011:

Ngài Ngô Phủ Quân: Tiền Khai Khẩn Bổn Thổ Thành Hoàng làng Phù Bài, Húy Thụ tự Thù. Dòng dõi của Ngài Ngô Thù vốn gốc ở Bột Hải quận (nay là tỉnh Sơn Đông) dưới triều nhà Minh (1368-1644). Tổ tiên của Ngài Ngô Thù là một đạo sĩ Lão giáo thiền sư có tài kỳ môn độn giáp, pháp thuật thần thông. Ngài Tổ làm quan ở Đạo Kỳ ty triều nhà Minh, phụng mệnh làm khâm sai giáo sĩ sang đất Việt để truyền Đạo giáo.
Gia phả họ Ngô Phú Bài: “Thời kỳ nội thuộc nhà Minh cai trị, từ năm 1414 đến 1427 vua triều Minh ban chỉ truyền mở mang Nho học sang Đất Việt, lấy Tứ thư Lục kinh, bộ Tinh lý Đại toàn đưa sang ban cấp cho người Việt ở các phủ, châu, huyện… Căn cứ vào lịch sử thì ngài Bổn Thổ thành hoàng làng Phù Bài là dòng họ Ngô húy Thụ tự Thù. Ngài vốn dòng dõi Trung Quốc dưới triều nhà Minh. Tổ của Ngài là một đạo sĩ Lão giáo thiền sư, có tài kỳ môn độn giáp, vạn pháp quy tôn, pháp thuật thần thông ngũ trí, tài năng hoán bổ lục thao. Ngài làm quan ở Đạo Kỳ ty triều nhà Minh, phụng mệnh làm khâm sai giáo sĩ sang đất Việt để truyền Đạo giáo..” Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1418-1427) Lê Lợi đã thế đức hiếu sinh cấp gạo thuyền cho quân Minh rút về nước (23.12.1427). Gia đình ngài Ngô Thù chỉ là giáo sĩ sang truyền đạo vì thế đã quyết định ở lại cư trú tại xứ Đường Lâm, quê hương của Ngô Quyền.
Gia phả họ Ngô Thanh Thủy: “Nguồn gốc ngài Thái tổ (Ngài Ngô Thù) quê ở Trung Quốc tại xứ Minh Châu, lạc đạo giáo vãng cư Việt địa, Băc Ninh tỉnh, Đường Lâm xứ, đời Quang Thuận Lê Thánh Tông 1460 Hậu lê”. Sống ở Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì, Hà Tây), qua một thời gian dài, đến đầu thế kỷ XVI, gia đình ngài Ngô Thù đã trở thành người Việt chính thống. Vì thế, khi ngài Ngô Thù sinh (13.4 năm Nhâm Tuất 1502) Gia phả họ Ngô Lang Xá ghi: “Nguyên hệ xuất Bột Hải quận, tính Ngô, Đường Lâm nhân, thuộc Bắc Ninh tỉnh”. Được tiếp thu sở học của ông cha, ngài Ngô Thù đã trở thành một đạo sĩ Lão giáo thiền sư tài giỏi. Ngài tham gia quân đội và trở thành một võ tướng chỉ huy đội quân tinh nhuệ dưới tướng Nguyễn Kim. Năm 1527 Mạc Đăng Dung truất phế vua Lê, thành lập nhà Mạc. Nguyễn Kim giương cao lá cờ Phù Lê diệt Mạc, lập Nam triều ở Thanh Hóa. Gia đình ngài Ngô Thù chuyển về cư trú ở Thanh Hóa.
Gia phả họ Ngô Lang Xá: “Lê Trang Tông hữu niên giám, tỵ Mạc chi loạn, cư Thanh Hóa”. Sau năm 1527 khi ở Thanh Hóa Ngài Ngô Thù đã có hai phu nhân: Đệ nhất phu nhân Bà Lê Thị Thị sinh hạ một ái nữ. Đệ nhị phu nhân Bà Triệu Thị Mai hạ sanh được tam lang. Căn cứ vào năm sinh của ngài Ngô Điêu 1542 thì các con của ngài Ngô Thù đều sinh ra ở Thanh Hóa: Bà chị đầu Ngô Thị Cừ sinh khoảng 1530. (Sau này kết hôn với ngài thủy tổ họ Lê Phù Bài là ngài Lê Ngọc Hiền). Anh trai đầu Ngô Tôi tự Dao sinh 1536, Ngô Lực tự Minh Triết sinh 1539, Ngô Điêu là con trai út sinh 1542.
Đến giữa thế kỷ XVI dưới thời Hậu Lê, nội bộ triều đình từ khi Nguyễn Kim chết đã nãy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai dòng họ đang tôn thờ vua Lê. Trước tình hình đó, được sự tư vấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân “ (Hoành sơn một dãy, dung thân muôn đời. Nguyễn Hoàng đã vận động xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để tránh âm mưu sát hại của Trịnh Kiểm và lo xây dựng lực lượng lâu dài về sau. Tháng 10 năm 1558 Nguyễn Hoàng nhận cờ Tiết chế vào trấn thủ Thuận Hóa lúc 34 tuổi. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa đã đem theo những người thân tín tài giỏi, là những thành phần nòng cốt của mình, trong đó có gia đình ngài võ tướng tâm phúc Ngô Thù.
Tộc sử họ Ngô Việt Nam“Những người họ Ngô thiên cư theo Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị, Thừa Thiên nay có trên 30 Họ, nhiều nhất là ở Huế và vùng lân cận.”
Gia phả họ Ngô Lang Xá của Ngô viết Hòa (viết vào năm 1662): “Kỳ thời thống tướng Trịnh Kiểm ngôn vu đế, Lê đế chuẩn, Thái Tổ phân binh ngự Mạc, sở hướng khắc tiệp, dự hữu chiến công. Cập Mạc thối suy, công tại Thuận Hóa, hỹ kiến thử thổ địa sơn xuất hình thắng”
Dịch: Lúc bấy giờ thống tướng Trịnh Kiểm nói với vua cho Thái Tổ (Nguyễn Hoàng) vào trấn thủ Thuận Hóa. Ông (Ngô Thù) theoThái Tổ phân binh đánh Mạc, đánh đâu thắng đó, lập nhiều chiến công. Sau ngày Mạc bại ông thấy ở Thuận Hóa đât đai rộng rãi phì nhiêu…
Đến Thuận Hóa, ngài võ tướng Ngô Thù được được phân công chỉ huy đồn An Nông, một chốt tiền tiêu bảo vệ thủ phủ Thuận Hóa. Sau khi xây dựng đồn An Nông, bố trí lực lượng đề phòng giặc Chiêm Thành ở phía Nam, ngài Ngô Thù chiêu dân khai hoang lập làng. Ngài đã cùng nông dân khai hoang một vùng đất rộng lớn từ An Cựu cho đến Phú Bài: Phía đông giáp sông Đại Giang và đầm Hà Trung, Phía bắc giáp hữu trạch sông Hương, Phía nam giáp sông Nong, Phía tây giáp Dương Hòa, Lương Miêu.
Với một vùng đất đai rộng lớn, ngài Phủ Quân đã nhượng đất cho ngài Nguyễn Đương, Lê Trại (đến sau ngài Ngô Thù gần 20 năm), nhượng phần ruộng ở Bàu Phù Nam và Bàu Năng cho ngài Nguyễn Đà khai canh làng Nong. Đất ở Thanh Thủy được phân chia cho con trai thứ hai Ngô Lực. Ngài Ngô Lực trở thành Khai canh làng Thanh Thủy: “Thủy Tổ Khai canh Tòng Quân Thị Thọ Đặc Tấn Phụ Quốc,Thượng Tướng Cẩm Y Vệ Chanh Dinh Chưởng Cơ Lực Tài Hầu Ngô Quý Công”. Đất ở Lang Xá được phân cho con trai út Ngô Điêu, Ngài Ngô Điêu trở thành khai canh làng Lang Xá: “Bản Thổ Tiền Khai Canh Ngô Viết Đại Lang”. Riêng phần ruộng đất ở làng Phù Bài thì giao cho người con trưởng Ngô Tôi, Ngài Ngô Tôi trở thành Tiền Khai canh Ngô Đại Tôn của làng Phù Bài : “Trưởng nam theo gót chân cha,Thứ nam Thanh Thủy và Lang Xá Bàu.”
Ngoài công lớn khai hoang lập làng, Ngài Ngô Thù còn có công tìm mỏ khai quặng cung cấp cho triều đình, mỗi năm nộp 2000 khối quặng sắt (mỗi khối 25 cân). Có thể nói Phù Bài là địa danh luyện sắt đầu tiên ở vùng Đằng Trong. Ngài Ngô Thù còn công tổ chức phòng chống giặc cướp và thú dữ, bắt cọp dụ voi cung cấp cho triều đình và nhiều tài nguyên khác, đặc biệt giống nếp thơm.
Do công lao, tài năng và đức độ, Ngài Ngô Thù được triều đình ban nhiều sắc chỉ và phong thần. Tước phong cao nhất của triều Hậu Lê là: Tiền khai khẩn Bản thổ thành hoàng Ngô Quý công, gia tặng Đại tướng quân oai linh tôn thần. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ban lệnh bài: Bản Thổ Thành hoàng Đại tướng quân hiển ứng oai linh tôn thần. Các triều Nguyễn đều có sắc phong: Quang Ý Trung Đẳng Thần.
Ngài Ngô Phủ Quân có nhiều công lao với đất nước và với làng Phù Bài, vì thế các triều nhà Nguyễn liệt ngài vào “Từ Điển Công Thần” với sắc phong “Hộ Quốc Tý Dân”, do đó mỗi khi tế đàn Nam Giao tên Ngài được ghi vào danh sách công thần trong bài văn tế. Trưởng Cả (Tự thừa) của làng Phù Bài được mời tham dự có xe kiệu võng giá đưa rước như các vị công thần: "Thứ nhất Phủ Doản Thừa Thiên, Thứ nhì Hội viên Đầm Dã, Thứ ba trưởng cả Phú Bài."
Như vậy, ba vị khai canh Ngô Đại tôn Phù Bài, Ngô Thanh Thủy, Ngô Lang Xá đều là con của ngài Ngô Phủ Quân, vị Đại tướng công thần dưới triều Nguyễn. Húy kỵ ngàì Bổn Thổ nhằm ngày 13.4 và 13.12 ÂL hàng năm.
Kết luận:
Qua hàng ngàn năm phát triển, con cháu họ Ngô Việt Nam sinh sôi nảy nở thành nhiều hệ phái khác nhau, nhưng Tổ tiên Họ Ngô căn dặn: “Mấy Ngô cũng một Ngô”, “Mười đời không rời cánh tay", "Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Như vậy những người họ Ngô trên đất Việt đều có chung huyết thống, đều là bà con. Với tinh thần đó, họ Ngô Việt Nam có truyền thống tốt đẹp: Dù ở đâu những người cùng mang họ Ngô đều có tinh thần gắn bó, thương mến giúp đỡ nhau. Đặc biệt tại nhà thờ họ Ngô còn ghi lại đôi câu đối để nhắc nhỡ muôn đời con cháu mai sau : “Thủy Tổ công cao, Ngư Động Sầm Sơn liên ngũ nhạc. Khai canh đức trọng, Phù Bài, Thanh Thủy, Xá tam lang.” Dịch: Thủy Tổ công cao, từ Động Ngư đến độn Sầm năm hòn núi nối tiếp. Khai canh đức trọng, Phù Bài,Thanh Thủy, Lang Xá là ba anh em ruột.
Tự hào là con cháu họ Ngô, mỗi chúng ta tỏ lòng biết công ơn Tổ tiên, hiếu kính với dòng tộc, luôn giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của Họ để xứng đáng là con cháu của những vị võ tướng khai canh “Giúp nước phò dân” rạng ngời trong sử sách.

II. Trích Bài viết của nghienson ngày 31/03/2012 tại trang Web:http://www.traonha.wordpress.com
Họ NGÔ làng Phù Bài; Thanh Thủy; Lang Xá, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế:
Cả ba làng đều chung một Thuỷ tổ Ngô Thù, được thờ làm Thành hoàng làng Phủ Bài. Là một Lão Giáo Thiền sư, cư trú Đường Lâm, gặp lúc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, vào Thanh Hoá Nghệ An, cuối cùng toàn gia theo phò Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá, có công chiêu dân khai hoang lập ấp, cùng Nguyễn Đường và Lê Trãi mở một vùng rộng trên 15km2.Sau nhượng đất cho hai họ Nguyễn, Lê, còn lại chia cho hai con thứ ở Thanh Thuỷ và Lăng Xá, còn 7.600 mẫu . Ngoài ra còn tìm mỏ khai quặng cung cấp cho triều đình mỗi năm 2000 khối ( một khối 25 kg ). Lại tổ chức phòng chống giặc cướp và dã thú phá hoại mùa màng, bắt cọp, dụ voi cung cấp cho triều đình, có nhiều lần được sắc phong:
Hậu Lê phong Tiền khai khẩn bản thổ Thành hoàng Ngô quý Công tặng Đại tướng quân oai linh tôn thần.
Chúa Nguyễn Phúc Tần ban lệnh bài ” Bản thổ Thành hoàng Đại tướng quân hiển ứng oai linh tôn thần “.
Các triều Đồng Khánh, Duy Tân, Bảo Đại, Khải Định đều có sắc phong Dực bảo Trung hưng, trung đẳng tôn thần.
Ông sinh ba con trai: Ngô Tôi, Ngô Lực, Ngô Viết Điêu, chia ở ba làng, nay thành ba chi họ.
Khảo cứu :
Phả họ chép: Nguyên quán Minh Châu Lạc đạo giáo, quận Diên Lăng, sau là Bột Hải tỉnh Sơn Đông-Trung Quốc, sang Việt Nam có trú ở Đường Lâm tỉnh Bắc Ninh, tỵ nạn nhà Mạc vào châu Ái, châu Hoan, cuối cùng vào Thuận Quảng.
Trên đây là do người dịch, nguyên văn chữ Hán như sau:
” Nguyên hệ xuất Bột hải quận, tính Ngô, Đường Lâm nhân thuộc Bắc Ninh tỉnh. Lê Anh Tôn Thiên Hựu niên giám, tỵ Mạc chi loạn cư Thanh Hoá. Kỳ thời Thống tướng Trịnh Kiểm ngôn vu Đế, Lê Đế chuẩn Thái Tổ phân binh ngự Mạc, sở hướng khắc tiệp, dư hữu chiến công. Cập Mạc thối suy chi hậu, công tại Thuận Hoá hỹ, kiến thử thổ địa sơn xuất hình thắng…”.
Nghĩa là: ” Vốn từ quận Bột Hải, họ Ngô, người Đường Lâm tỉnh Bắc Ninh, khoảng năm Thiên Hựu triều Lê Anh Tôn, Thống tướng Kiểm nói với vua cho Thái Tổ ( Nguyễn Hoàng ) vào trấn thủ Thuận Hoá. Ông theo Thái Tổ chiêu binh đánh Mạc, đánh đâu thắng đó, có nhiều chiến công. Sau ngày Mạc bại , ông ở Thuận Hoá, thấy đất rộng rãi bằng phẳng…”
Nghiên cứu kỹ thấy rằng bản phả chữ Hán tuy là xưa nhưng cũng mới viết khoảng triều Nguyễn, cho nên mới có địa danh ” Bắc Ninh “. Đúng ra Đường Lâm thuộc trấn Sơn Tây, và ngày nay thuộc thành phô Hà Nội. Người dịch có thể nhầm Bột Hải ở Bắc Trung Quốc cho nên thêm vào ” Nguyên tổ tiên là người Trung Hoa ở Bột Hải quận “. Theo tư liệu hiện nay,ở Việt mam có quận Bột Hải , địa danh rất xưa ở vùng Diễn Châu ngày nay . Họ Ngô Trí ở Diễn Châu có năm vị tổ có thuỵ hiệu ” Tiền Bột Hải quận Ngô…” . Họ Ngô Phù Mỹ, Bình Định Thuỷ tổ cũng từ Bột Hải quận thiên cư. Họ Ngô ở Trạch Kim huyện Can Lộc có Thuỷ tổ là Khang Trạch Hầu con trai Thế Quận công Ngô Cảnh Hữu ở Trảo Nha cũng có Thuỵ hiệu ” Tiền Bột Hải quận “…
Như vậy ông Ngô Thù không phải là người Trung Quốc mới sang Việt Nam mà có thể là người họ Ngô gốc Diễn Châu ,Quỳnh Lưu thuộc Nghệ An. Nếu là người Trung Quốc mới sang Việt Nam vào thời Hậu Lê thì không thể là dòng dõi Ngô Vương Quyền đã có ở Việt Nam trước thế kỷ thứ 9. Hơn nữa Nguyễn Hoàng khi ra đi trấn Thuận Hoá chỉ đem theo những người thân tín nhất thuộc Thanh Nghệ .( Chúng tôi đã về vùng Diễn Châu Nghệ An hỏi, các cụ già đều nói rằng địa danh Bột Hải quận là tên xưa của vùng này, chưa rõ từ thời nào ).
1. Họ NGÔ Làng Phù, huyện Hương Thủy:
Thuỷ tổ Ngô Tôi (Dao) con trưởng Ngô Thù, được phong ” Khai canh Ngô Đại Lang, Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn thần “, sinh :
Ngô Dao, chi nhất làng Phù Bài.
Ngô Chiêm, đến đời thứ 16 thì tuyệt tự.
Ngô Quốc, chi nhì làng Phù Bài.
Ngô Việt, chi ba làng Phù Bài
Ngô Tử Khiển (vô tự).
Ngô Thị Bông, Ngô Thị Ba, Ngô Thị Bà, Ngô Thị Thường.
2. Họ NGÔ Làng Thanh Thủy, huyện Hương Thủy:
Thuỷ tổ Ngô Lực tự Minh Triết, con thứ Ngô Thù, Khai canh làng Thanh Thuỷ, ngày nay thành hai xã Thuỷ Thanh và Thuỷ Dương. Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm y vệ Chánh dinh Chưởng cơ, Lục Tài Hầu. Có đền thờ, phong Đoan Túc Tôn thần. Ông theo Nguyễn Hoàng đánh Mạc và đánh Chiêm Thành.
3. Họ NGÔ làng Lang Xá, xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy:
Thủy tổ Ngô Viết Điêu con trai thứ ba Ngô Thù, giúp Nguyễn Hoàng chống Mạc, đánh Chiêm Thành, xây dựng trấn Thuận Quảng. Có đền thờ phong Tiền khai canh Dực bảo trung hưng. Trước phong Đoan Túc, gia tăng Quang ý Trung đẳng tôn thần. Mất năm Vĩnh Tộ thứ 6 ,1625, thọ 83 tuổi.

HÌNH ẢNH NHÀ THỜ HỌ NGÔ
Làng Phù bài, xã Thuỷ phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế (Nay là: Xã Thủy Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Gia Phả NGÔ
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc NGÔ.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc NGÔ
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.