Làng Hiếu Hiệp (có thời gọi là Hảo Hiệp) xưa có tên gọi là xã Hảo Hiệp, tổng Hạ Hiệp, Huyện An Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (thời kỳ nhà Nguyễn 1802-1945), nằm dọc theo bờ đê sông Đáy bắt nguồn từ cửa Hát giang, chảy qua Hà Nam, Ninh Bình đổ ra biển Đông.Quá trình thay đổi về quản lý hành chính Nhà nước, nay được đổi thành thôn Hiếu Hiệp, xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Hiện chưa tìm được tài liệu ghi chép làng, xã có từ bao giờ, ai là người đến xây cơ lập nghiệp đầu tiên, nhưng có một minh chứng lịch sử rõ ràng là: tướng Hoàng Đạo Đại Vương là một danh tướng của Hai Bà Trưng, sau khi chiến đấu với quân Nam Hám (năm 40 – 43 sau công nguyên) tại vùng Sơn Tây, Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở cửa Hát Giang (hiện nay, tại Hát Môn, huyện Phúc Thọ vẫn còn đền thờ Hai Bà Trưng, đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá). Danh tướng Hoàng Đạo Đại Vương lui quân về vùng đất mả vàng thuộc tổng Hạ Hiệp và hoá thân tại đó, hiện nay Quán Hạ (tại xóm 9 thôn Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp), quán Hiếu và 2 ngôi đình của 2 thôn Hiếu Hiệp và Hạ Hiệp đều thờ ngài là Thành Hoàng, trong đình còn lưu giữ nhiều sắc phong của các đời vua chúa. Đình Hạ Hiệp đã được nhà nước Việt Nam công nhận di tích lịch sử văn hoá.Hàng năm vào ngày 12/3 âm lịch, dân làng 2 thôn đều tổ chức tế lễ để tưởng niệm công đức của Ngài, điều đó chứng tỏ sự tồn tại của vùng đất, vùng quê này đã có từ xa xưa cho đến ngày nay.
Họ Giang ở làng Hiếu Hiệp là một họ lớn, đến nay đã có khoảng 150 hộ và 700 nhân khẩu, đang cùng chung sống với 12 dòng họ ở làng, mọi người trong họ đều chí thú làm ăn, con cháu chăm chỉ học hành, không có ai sống dưới mức nghèo khổ và mù chữ.Thời trước cách mạng tháng Tám năm 1945, có nhiều cụ đã làm đến chức cai, đội như cụ Đội Loan, cụ Cai Năm, chức Phó lý, trưởng bạ, cửu phẩm như cụ Phó Tuân, cụ Trưởng Mại, cụ Bá Diễm, cụ Cửu Chúc..., chức tú tài, giáo học như cụ Tú, ông giáo Chiểu, thầy đồ, thầy thuốc như cụ Đồ vừa dạy học vừa làm thuốc, cụ Lịch đỗ tuyển sinh đã dạy chữ Nho một thời...Đặc biệt có 2 cụ là Giang Văn Đàm (hậu duệ của cụ Giang Vượng Đỉnh) đã thực hiện lời di huấn của ông cha và cụ Giang Văn Duệ đã cống hiến một phần đất ở của gia đình để xây dựng nhà thờ tổ họ và nhà thờ tổ chi (vào năm 1940 và 1927).Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong họ có nhiều người là cử nhân khoa học, cử nhân kinh tế làm trọng trách trong các cơ quan nhà nước và địa phương như ông Hiểu – Vụ phó - Bộ xây dựng, ông Toàn – Tỉnh uỷ Phú Thọ, có nhiều người là tướng, tá trong quân đội như Đại tá Giang Văn Chấn – Chánh thanh tra QK1, và nhiều gia đình sống chung 3 – 4 thế hệ vẫn hoà thuận, ấm cúng, thịnh vượng như gia đình ông Giang Văn Tố, Giang Văn Đán, Giang Văn Lâm, Giang Văn Sửu...Họ Giang ở Hiếu Hiệp cũng có nhiều con em tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ bảo vệ tổ quốc như ông Kim, ông Quyết, ông Oanh, ông Huyền, ông Thắng, ông Đề ... có nhiều người là liệt sĩ, dũng sĩ, chiến sĩ thi đua, được hưởng nhiều huân, huy chương.Các cháu ngày nay nhiều cháu học giỏi, ngoan ngoãn đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học ngày một nhiều, có gia đình 2 – 3 con đều đỗ đại học như: gia đình ông Sảng, ông Hiểu, ông Phùng, có cháu vừa làm vừa học đã tốt nghiệp đại học như Giang Đức Chung, Giang Văn Phú...Trong lao động sản xuất, nhiều gia đình có thu nhập hàng năm 20 – 30 triệu đồng, ngày càng nâng cao đời sống như Giang Văn Trường, Giang Văn Đống, Giang Văn Thiêm, Giang Văn Sự... (Xem thêm trong Báo cáo của dòng họ trong Kỷ yếu họ Giang 7/2000).
Cụ sơ khởi tổ của dòng họ Giang ở làng Hiếu Hiệp, đến nay rất tiếc chưa có cứ liệu xác minh chính xác có từ bao giờ, nhưng khẳng định đã có từ lâu đời, cùng chung sống với dân làng Hiếu Hiệp trong việc tham gia lập quán, xây đình thờ Hoàng Đạo Đại Vương là Thành hoàng của làng - đó là minh chứng không thể phủ nhận.Cùng với các chi tộc họ Giang ở các địa phương, tháng 6/2000 thông qua gia phả của các chi Giáp, ất, Bính, các tài liệu của các gia đình và chuyện kể của các cụ cao niên trong dòng họ, các dấu ấn trên các hoành phi, câu đối hiện đặt ở nhà thờ tổ họ, nhà thờ tổ chi, dòng họ ta đã có căn cứ để lập được phả đồ của cả họ Giang ở làng Hiếu Hiệp. Phả đồ được lưu giữ ở nhà thờ tổ và nhà ông trưởng họ Giang Văn Chiên.
Hàng năm vào ngày giỗ tổ 14/7 âm lịch hoặc ngày mồng 7 tết, họ họp sẽ ghi bổ xung những sự kiện biến động về nhân sự, gia cảnh của mỗi gia đình vào phả tộc và phả đồ. Qua phả đồ, chúng ta có thể xác định, họ Giang ở làng Hiếu Hiệp đến nay đã được 15 đời từ cụ sơ khởi tổ, nhưng có điều đáng tiếc là vì những lý do đời sống nghèo khổ, thiên tai, chiến tranh tàn phá, tản cư, sơ tán, hoặc cũng có thể các cụ thời xưa quan niệm: “Ngũ đại mai thần chủ" nên việc lưu giữ mồ mả, giỗ chạp tư liệu các đời tiền bối có thể bị coi nhẹ chăng?!Vì vậy đến nay các gia đình chỉ còn giữ lại được những gia phả từ khi các cụ tách làm 3 chi, từ đời thứ 5 trở về sau, còn đời thứ 4 trở về trước chưa tìm được tài liệu để xác minh, mong rằng các thành viên trong họ hãy dành thời gian tâm đức để tìm hiểu tư liệu về các cụ tiền bối của dòng họ ta, xây dựng được một tộc phả hoàn chỉnh, thực hiện đạo lý “con có cha là nhà có phúc", "uống nước nhớ nguồn" hoặc “con người có cố có ông, như cây có gốc như sông có nguồn".
Tuy vậy đến nay chúng ta khẳng định họ Giang làng Hiếu Hiệp hình thành và phát triển như sau:Đến đời thứ 5, các cụ đã tách thành 3 chi là:
1. Chi Giáp:
Cụ tổ là Giang Quý Công, Hiệu Sỹ Hiệp
Có 3 vợ là: 1. Hiệu Thị Khuyến
2. Hiệu Thị Đán
3. Hiệu Lương Thiện
Giỗ ngày 2/2 âm lịch.Chi trưởng hậu duệ ngày nay là ông Giang Văn Chiên và các con cháu kế tục về sau.
2. Chi Ất:
Cụ tổ là Giang Quý Công, hiệu Đôn Phụ, tự Vượng Địch. Giỗ ngày 11/4/âm lịch
Có vợ là cụ Đỗ Thị – Hiệu Từ Tường Giỗ ngày 23/chạp/âm lịch.
Chi trưởng hậu duệ ngày nay là ông Giang Văn Lềnh và các con cháu kế tục về sau.
3. Chi Bính:
Cụ tổ là Giang Quý Công - hiệu Đức Chân Giỗ ngày 27/9/âm lịch
Có vợ là cụ Nguyễn Quý Thị – hiệu Thục Ân Giỗ ngày 6/4/ âm lịch.
Chi trưởng hậu duệ ngày nay là ông Giang Văn Lư, Giang Văn Thuỷ và các con cháu kế tục về sau.
Sau khi tách thành 3 chi, mỗi chi đều lập gia phả riêng của chi mình, để truyền lại cho các thế hệ đời sau mãi mãi.Tuy vậy, với xu hướng ngày càng phát triển, việc lập tộc phả là một yêu cầu thực tế khách quan để duy trì mối quan hệ huyết thống, nên ông trưởng họ có trách nhiệm đôn đốc, duy trì việc bổ xung, tập hợp phả tộc để có cơ sở cung cấp thông tin cho tổ chức UNESCO các dòng họ Việt Nam, đồng thời, các gia đình trong dòng họ cũng nên tập hợp gia phả của các nhánh (tiểu chi), các chi, thành phả tộc mà lưu giữ cho con cháu trong gia đình mình, đó là biểu hiện của tấm lòng yêu mến dòng họ, tấm lòng quý trọng sử liệu và truyền thống dòng họ của mỗi người, mỗi gia đình. |