Người trong gia đình |
Tên |
Phan Đình Phùng (tên huý là Điều) (Nam) |
|
Tên thường |
|
Tên Tự |
tên tự là Tôn Cát |
Ngày sinh |
24 tháng Tư năm Đinh Mùi (1847) |
Thụy hiệu |
hiệu là Châu Phong, thuỵ là Trang Lượng Phan hầu |
|
Ngày mất |
13 tháng 11 năm ất Mùi (1895) |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
5.4 Tiên tổ Phan Đình Phùng tên tự là Tôn Cát, hiệu là Châu Phong, thuỵ là Trang Lượng Phan hầu (tên huý là Điều), là con trai thứ tư của Tuần phủ Lạng Bằng Phan Đình Tuyển (đời 09), đỗ Đình nguyên Tiến sĩ. Người sinh ngày 24 tháng Tư năm Đinh Mùi (1847), mất ngày 13 tháng Mười một năm ất Mùi (1895). Lúc nhỏ tính đần, thấy anh em phần nhiều là thông minh khôn ngoan, chú bèn gắng sức đọc sách, khoảng 4, 5 năm tay không rời sách. Khoa Bính Tí, chú cùng với người cháu họ là Phan Văn Du cùng đỗ Cử nhân. Khoa Đinh Sửu thi Hội, liền đỗ Tiến sĩ Đình nguyên, trải làm các chức quan như Tri phủ phủ An Khánh, Ngự sử, Khâm sai, đến Bắc Kỳ khám xét tình hình thiên tai gió bão. Sau vì việc phế lập của đám quyền thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, cả triều đình chẳng ai dám nói ra, Người một mình giữa triều đình can ngăn, không chịu khuất phục, nên bị giáng chức, ít lâu sau lại được triệu về Kinh. Tiếp đó có tang mẹ, chú trở về quê. Năm Đồng Khánh ất Dậu, vua Hàm Nghi chạy trốn đến Sơn phòng Hà Tĩnh, có ban chỉ vời, chú đến hành tại(1) bái yết, được nhà vua giao cho chức Đổng biện nghĩa quân Nghệ Tĩnh. Vì là mệnh lệnh của vua nên chú không dám từ chối, hăng hái khởi nghĩa. Với Pháp, Người là kẻ thù, phải vào ẩn trong núi để mưu đồ việc nước. Chẳng may bị bệnh ở trong núi, thuốc thang chữa chạy không khỏi, nên mất vào ngày 13 tháng Mười một. Khi Người đứng ra nhận mệnh lệnh của vua, biết là việc không thành công được, nên đã dặn vợ con và những người đi theo ra trình diện đầu thú để bảo toàn tính mạng (lần ấy con trai chú là Đình Cam, con gái là Thị Năm, Thị Sáu, vợ là bà Ngoạt Rừng và cháu trai là Đình Phương, Đình Nghinh đều ở trong núi trở về). Trước sau Nười giữ vững khí tiết của người làm tôi, tên tuổi truyền khắp hai kỳ Nam, Bắc. Người Pháp cũng phải khen ngợi Người là người bậc nhất.
* Vợ cả của Người là con gái của quan Phủ Thận người thôn Thọ Tường (cố Đình thọ 73 tuổi, giỗ ngày 20 tháng Bảy năm Canh Thân), sinh được 4 trai, nay chỉ còn 1 con trai là Phan Đình Hiệu tục gọi là Đễ Tạo (đi Nhật Bản du học, nay đã tử tiết tại Thượng Hải, được tặng hàm Thị độc, giỗ ngày 15 tháng Giêng).
* Vợ lẽ của Người là con gái của quan coi kho (người tỉnh Hà, chưa rõ lai lịch, chỉ thấy có nhà ở Kinh thành) làm vợ hai, gọi là bà Ngoạt Rừng, sinh được con trai là Phan Đình Cam (bị giam ở tỉnh Quảng Bình, do liên can đến vụ án của anh là Phan Đình Hiệu mà bị đày đi xa. Ngày 28 tháng Ba năm Bính Thìn bị bệnh chết ở tỉnh Hà Tĩnh); 2 gái là Phan Thị Năm, Phan Thị Sáu (Thị Năm gả cho con của án sát Hoàng Xuân Sinh ở xã An Hồ, Thị Sáu gả cho con của ông Tú ấm ở thôn Tùng ảnh xã Việt An). |
|
Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình |
Tên |
cố Đình (Nữ) |
|
Tên thường |
|
Tên tự |
|
Ngày sinh |
|
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
ngày 20 tháng Bảy năm Canh Thân |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
* Vợ cả của Người là con gái của quan Phủ Thận người thôn Thọ Tường (cố Đình thọ 73 tuổi, giỗ ngày 20 tháng Bảy năm Canh Thân), sinh được 4 trai, nay chỉ còn 1 con trai là Phan Đình Hiệu tục gọi là Đễ Tạo (đi Nhật Bản du học, nay đã tử tiết tại Thượng Hải, được tặng hàm Thị độc, giỗ ngày 15 tháng Giêng). |
Tên |
Bà ? (Nữ) |
|
Tên thường |
gọi là bà Ngoạt Rừng |
Tên tự |
|
Ngày sinh |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
* Vợ lẽ của Người là con gái của quan coi kho (người tỉnh Hà, chưa rõ lai lịch, chỉ thấy có nhà ở Kinh thành) làm vợ hai, gọi là bà Ngoạt Rừng, sinh được con trai là Phan Đình Cam (bị giam ở tỉnh Quảng Bình, do liên can đến vụ án của anh là Phan Đình Hiệu mà bị đày đi xa. Ngày 28 tháng Ba năm Bính Thìn bị bệnh chết ở tỉnh Hà Tĩnh); 2 gái là Phan Thị Năm, Phan Thị Sáu (Thị Năm gả cho con của án sát Hoàng Xuân Sinh ở xã An Hồ, Thị Sáu gả cho con của ông Tú ấm ở thôn Tùng ảnh xã Việt An). |
|