GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
MINH
MẠNG
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: NGUYỄN PHÚC KHOÁT
Đời thứ: 9
Người trong gia đình
Tên NGUYỄN PHƯỚC THUẦN
Tên thường
Tên Tự
Là con thứ 16
Ngày sinh 18/11 /Giáp tuất (31-12-17
Thụy hiệu  
Ngày mất 18/9 /Đinh dậu (18-10  
Nơi an táng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên)  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

        Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Thuần (còn có tên là Hân), con thứ 16 của Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát và Huệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyễn Sư Nguyễn Phúc Ngọc Cầu. Ngài sinh ngày 18 tháng 11 năm Giáp tuất (31-12-1754).

        Đương thời, đức Hiếu Vũ đã lập con trai duy nhất cùa chính phi là Nguyễn Phúc Hão (Hoàng tử thứ 9) làm Thế tử. Thế tử mất sớm, Hoàng tử thứ nhất Nguyễn Phúc Chương cũng mất sớm nên đức Hiếu Vũ chuẩn bị để lập Hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Côn (Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế) lên làm Thế tử. Nhưng khi đức Hiếu Vũ băng, quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu, phế đế Hoàng tử Côn bắt bỏ ngục và lập Hoàng tử thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi xưng hiệu là Định Vương, đạo hiệu là Khánh Phụ đạo nhân.

        Lên ngôi, ngài phong cho Trương Phúc Loan là Quốc phó nên mọi quyền hành đều ở trong tay Loan. Con trai Loan thì lấy Công chúa, con gái thì gả cho Hoàng tử nên quyền lực trong Hoàng triều tập trung cả và0 gia đình họ Trương. Từ đó gây nên mầm mống loạn lạc : buôn quan bán tước, sưu cao, thuế nặng, lòng người oán hận. Loan đấu thầu nguồn rừng Nam Ngãi, thu thuế nguồn vàng Thu Bồn, v.v... Hàng năm nguồn lợi trưng thu được vọt số mà chỉ nộp cho nhà nước một phần, của cải chất đầy như núi đến nỗi có lần gặp lụt vàng bạc, châu báu đem phơi sáng rực cả sân.

        Năm Quí tỵ (1773), quân Tây Sơn nổi binh chiếm Qui Nhơn, dựng cờ "Phù Nguyễn, diệt Trương". Ba anh em Hồ Nhạc, Hồ Huệ va Hồ Lữ đổi thành họ Nguyễn, tôn phù Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương (con Thế tử Nguyễn Phúc Hạo), nêu tội ác của Trương Phúc Loan để thu phục nhân tâm.

        Năm Giáp ngọ (1774), quân Trịnh nhân cơ hội miềnNam rối ren, đem quân vào đánh, lấy danh nghĩa "vì thân thích nhiều đời với Chúa Nguyễn nên đem quân vào giúp Chúa Nguyễn, diệt trừ Trương Phúc Loan". Nhân tâm ly tán, Phú Xuân thất thủ, ngài phải chạy vào Quảng Nam và lập Hoàng tôn Dương Làm Thế tử. Quảng Nam có nguy cơ mất, ngài cùng Hoàng tôn Nguyễn Phúc Anh (tức là vua Gia Long) và xa giá đi thuyển vào Gia Định để Thế tử ở lại cố thủ.

        Nguyễn Nhạc bắt được Thế tử, đưa về Hội An rồi gả con gái là Thọ Hương cho để thu phục lòng dân. Nhiều lần Nhạc yêu cầu Thế tử lên ngôi nhưng Thế tử không chấp thuận.

        Năm Bính thân (1776) đức Duệ Tông vào đến Gia Định, Mạc Thiên Tứ đem các con đến hành tại (ở Bến Nghé) để bái yết. Ngài phong cho Thiên Tứ làm Đô đốc Quận công và truyền đem quân về đạo Trấn Giang đóng giữ. Cuối năm đó, Thế tử làm trốn được cùng với Nguyễn Phúc Xuân vượt biển vào Nam. Lúc này Đỗ Thanh Nhân đã đánh lui quân Tây Sơn chiếm lại Sài Gòn. Vua Chân Lạp là Nặc Vinh thấy Gia Định rối ren, không nạp cống nữa. Ngài sai Chưởng sứ Nguyễn Phúa Ánh đi đánh Chân Lạp, Nặc Vinh xin hàng, thế lực của Chúa Nguyễn lại được củng cố.

        Tháng 11 năm Bính thân (1776), do áp lực của các tướng thuộc hạ của Đông cung, ngài nhường ngôi cho Thế tử. Thế tử (Hoàng tôn Dương) lên ngôi xưng hiệu là Tân Chính Vương, tôn ngài làm Thái thượng hoàng.

        Năm Đinh dậu (1777) Nguyễn Huệ vào đánh chiếm Sài Gòn ngài chạy xuống Định Tường, rồi đến Cần Thơ. Ngày 17 tháng 8 năm Đinh dậu (18-9-1777) Tân Chính Vương và 18 quan theo hầu đều bị hại. Ngài về Long Xuyên, quân Tây Sơn đánh chiếm Long Xuyên. Ngày 18 tháng 9 năm Đinh dậu (18-10-1777) ngài cùng các tướng bị Tây Sơn bắt và bi hại. Ngài mất lúc 24 tuổi, ở ngôi 12 năm.

*
* *

        Đức Duệ Tông Híếu Định Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn  thứ chín trị vì ở miền Nam.

        Khi lên ngôi ngài còn quá nhỏ tuổi, mọi quyền hành ở trong tay Trương Phúc Loan. Trong thời Loan làm Quốc phó, về mặt võ bị không được củng bố, về quan lại thì tệ nạn mua quan, bán tước làm mọi người chán nản, ít có người tài ra giúp nước.
Vả lại nhân tâm li tán nên khi có biến không thể chống được và cơ đồ phải rơi vào tay người khác. Tuy nhiên, lòng người còn tưởng nhớ đến công lao xây dựng miền Nam của các vị Chúa đời trước và đây là nền tảng vững chắc giúp cho Thế Tổ Cao Hoàng Đế xây dựng lại cơ đồ to lớn và rực rỡ hơn xưa.

        Ngài thuộc đời thứ mười của họ Nguyễn Phúc và vì không có con trai nên không khai sáng ra hệ mới.

- LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

        Ngài mất, ban đầu an táng tại  huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm Kỷ tỵ (1809), vua Gia Long cho cải táng về làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên) và đặt tên lăng là Trường Thiệu. Ngài được thời tại Thái Miếu, án thứ tư bên hữu.

        Khi đức Thế Tổ mới nhiếp chính, ngài được truy tôn : "Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định Vương". Đến năm Bính dần (1806), ngài được truy tôn : "Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định Hoàng Đế", miếu hiệu là Duệ Tông.

Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên Nguyễn Thị Châu
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh
Sự nghiệp, công đức, ghi chú


   
Chính phi

        Bà húy là Nguyễn Thị Châu, người huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bà là con của Quận công Nguyễn Cửu Sách. Tiểu sử không rõ.

        Bà mất ở Gia Định trong thời kỳ ly loạn, không biết mộ táng ở đâu.

        Bà sinh được mộ Hoàng tử là Nguyễn Phúc Ngọc Thục.


Các anh em, dâu rể:
   NGUYỄN PHƯỚC CHƯƠNG
   NGUYỄN PHÚC CÔN
   NGUYỄN PHÚC MÃO
   NGUYỄN PHÚC CƯỜNG
   NGUYỄN PHÚC DỰC
   NGUYỄN PHÚC CHẤT
   NGUYỄN PHÚC KÍNH
   NGUYỄN PHÚC BAN
   NGUYỄN PHÚC HẠO
   NGUYỄN PHÚC AN
   NGUYỄN PHƯỚC TUẤN
   NGUYỄN PHÚC YẾN
   NGUYỄN PHÚC ĐẠN
   NGUYỄN PHÚC QUYỀN
   NGUYỄN PHÚC DIỆU
   NGUYỄN PHÚC XUÂN
   NGUYỄN PHƯỚC THẮNG
Con cái:
       NGỌC THỤC
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.