GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
MINH
MẠNG
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: NGUYỄN CAM
Đời thứ: 1
Người trong gia đình
Tên TRỊNH KIỂM
Tên thường
Tên Tự
Ngày sinh 1503
Thụy hiệu  
Hưởng thọ: 68  
Ngày mất 1570  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

DÒNG DÕI CHÚA TRỊNH (1545-1786)

Trịnh Kiểm (1545-1570)
Trịnh Tùng (1570-1623)
Trịnh Tráng (1623-1652)
Trịnh Tạc (1653-1682)
Trịnh Cǎn (1682-1709)
Trịnh Cương (1709-1729)
Trịnh Giang (1729-1740)
Trịnh Doanh (1740-1767)
Trịnh Sâm (1767-1782)
Trịnh Tông (1782-1786)
Trịnh Bồng (1786-1787)

Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm (1545-1570)

Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm mồ côi cha từ thuở nhỏ và rất có hiếu với mẹ. Nhà nghèo nhưng mẹ Kiểm có sở thích rất trái cành: bà chỉ thích ǎn thịt gà luộc mà lại chỉ ǎn hai đùi và lườn. Không biết làm cách nào có gà để mẹ ǎn, Kiểm phải đi ǎn trộm gà của hàng xóm. Xóm làng mất nhiều gà, giận lắm, sau truy ra biết thủ phạm là Trịnh Kiểm. Từ đấy dân làng càng thù ghét mẹ con nhà Kiểm. Họ nghĩ rằng chi tại bà mẹ già mà Kiểm phải đi ǎn trộm. Một hôm nhân lúc Kiểm vắng nhà, họ bèn cùng nhau bắt bà mẹ vứt xuống một cái vực gần nhà dìm chết đuối. Kiểm về, không thấy mẹ đâu, bổ đi tìm đến sáng ra thấy chỗ vực mối đã đùn lên thành gò đống. Kiểm buồn lắm bỏ làng ra đi, vào nương nhờ, làm gia thần vị quan Nguyễn Kim.

Mặc dù không được học hành nhiều song Kiểm rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Nguyễn Kim mến tài, đem con gái cưng là Ngọc Bảo gả cho Kiểm. Từ đấy nhiều việc quan trọng, Nguyễn Kim thường giao cho Kiểm. Kiểm được cầm binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông. Nhà vua thấy ông có tướng mạo khác thường, phong ông làm Đại tướng quân, tước Dục Quận công vào nǎm Kỷ Hợi (1539). Khi đó Trịnh Kiểm 37 tuổi.

Nǎm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim trên đường hành quân ra đánh Bắc triều ở miền Sơn Nam đến Yên Mô (Ninh Bình) thì bị hàng tướng Nhã Mạc đánh thuốc độc chết. Quyền hành lọt vào tay lrịnh Kiểm. Khi được vua Lê chính thức trao toàn quyền thống lĩnh binh mã với tước Thái sư Lạng quốc công, Kiểm tự thấy chưa đủ lực lượng tấn công Bắc triều, liền rút quân về củng cố lực lượng...

Vua Lê Trang Tông tuy ngồi ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ. Nǎm 1548, Trang Tông mất, Trịnh Kiểm cho lập con lớn của Trang Tông là Huyên lên nối ngôi lấy hiệu là Trung Tông. Vua Trung Tông cũng chỉ ở ngôi được 8 nǎm thì mất khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi.

Nǎm Kỷ Tị (1569), vua Lê gia phong cho Kiểm làm Thượng tướng Thái quốc công và tôn là Thượng phụ. Cũng nǎm đó Trịnh Kiểm ốm nặng, dâng biểu xin trao lại binh quyền cho vua Lê. Vua Lê sai con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối nắm binh quyền.

Tháng 2 nǎm Mậu Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, truy tôn làm Minh khang thái vương, thụy là Trung Huân. Như vậy Trịnh Kiểm mở đầu sự nghiệp nắm quyền của họ Trịnh trong 26 nǎm, trải giúp ba đời vua, thọ 68 tuổi

Thành Tổ Triết vương Trịnh Tùng (1570-1623)

Theo thứ tự chính thống nối ngôi chúa thuộc về Trịnh Cối, là con bà vợ cả. Nhưng Trịnh Cối ham mê tửu sắc ngày càng kiêu ngạo càn rỡ. Các tướng dưới quyền Cối ngày một lìa xa. Vì thế chỉ hai tháng sau khi Trịnh Kiểm mất, tháng 4 nǎm Canh Ngọ (1570), các quan tướng của Trịnh Kiểm như Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách, Phan Công Tích đem quân bản bộ đến vói trịnh Tùng, yêu cầu Tùng lên thay Trịnh Cối. Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm với Ngọc Bảo, con gái Nguyễn Kim. Trịnh Tùng khôi ngô, có tài thao lược, biết cách lấy lòng các tướng sĩ, được Trịnh Kiểm rất yêu mến. Nhưng vì là con thứ nên Tùng chưa dám tranh quyền với Trịnh Cối. 

Biết anh em họ Trịnh đang đem quân đánh nhau để tranh ngôi chúa, tháng 8 nǎm Canh Ngọ (1570), vua Mạc sai Mạc Kính Điển đem đại quân 10 vạn người và 700 chiến thuyền đánh vào Thanh Hóa. Quân Mạc tiến như vũ bão vào tận cửa Linh Trương, Chi Long, Hội Triều. Quân lính Mạc đóng dinh trại tại Hà Trung, hai bên bờ sông khói lửa liên tiếp kéo dài tới 10 dặm. Trịnh Cối lo sợ vội đem vợ con và các thuộc tướng đến hàng quân Mạc. Mạc Kính Điển chấp thuận và phong Cối làm Trung Lương hầu, các quan đi theo Cối thì được phong tước công.

Quân Bắc triều rút rồi, nội bộ Nam triều lại lục đục: Lê Cập Đệ muốn giết Trịnh Tùng để giành quyền lại cho họ Lê. Mấy lần bày mưu mời Trịnh Tùng xuống thuyền uống rượu và ngắm trǎng, nhưng Tùng biết nên việc không thành. Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết.
Trịnh Tùng cho đón hoàng tử thứ 5 của vua Lê là Duy Dàm, lập làm vua. Vua Lê phong Tùng làm Đô tướng tiết chế các xứ thủy bộ chủ dinh kiêm quản bình chương quân quốc trọng sự. Tùng nắm trọn quyền trong triều, ngoài trấn, vua Lê chi là bù nhìn. Từ khi Tùng nắm trọn binh quyền, lực lượng phía Nam triều mạnh lên nhiều, quân Trịnh bắt đầu lại mở các cuộc tấn công ra Bắc. Tháng 9 nǎm Giáp Thân (1584) Trịnh Cối chết trên đất Bắc Triều.

Sau hơn 10 nǎm liên tục mở các cuộc tấn công ra Bắc, cuối cùng Trịnh Tùng đã đánh bại được quân nhà Mạc, khôi phục được kinh thành Thǎng Long.

Nǎm Â't Mùi (1595), Trịnh Tùng vào Thǎng Long bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị quy mô của bậc đế vương. Trịnh Tùng cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương với lục bộ của triều vua. Phủ chúa toàn quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính. Vua chỉ có mặt trong những dịp long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tầu mà thôi. Từ đấy bắt đầu một thời kỳ "vua Lê- Chúa Trịnh".

Con chúa Trịnh cũng được quyền thế tập gọi là Thế tử.

Trước sự hống hách, lộng quyền của chúa Trịnh, vua Lê Kính Tông không chịu nổi bèn cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân mưu giết Trịnh Tùng. Công việc bại lộ Trịnh Tùng bức Vua thắt cổ chết giữa tuổi 32. Tùng cho Hoàng Thái tử Lê Duy Kỳ lên thay ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thần Tông. 

Nǎm Quý Hợi (1623), Bình An vương Trịnh Tùng bị cảm, sai các quan bàn việc chọn Thế tử. Triều thần đều tâu lấy Thế tử Trịnh Tráng giữ binh quyền, còn con thứ là Thái Bảo quận cộng Trịnh Xuân giữ chức phó. Biết tin này, ngày hôm sau Trịnh Xuân đem quân và voi vào phá Nội phú cướp lấy voi ngựa, vàng bạc châu báu rồi bắt Trịnh Tùng phải dời ra ngoài thành rồi phóng lửa đốt phủ chúa, lửa cháy lan khắp kinh kỳ. Trịnh Tráng cùng em là Trịnh Khải đem vua chạy ra ngoài. Trịnh Tráng họp các quan vǎn võ ở chợ Nhân Mục huyện Thanh Trì bàn việc đối phó với Trịnh Xuân. Lúc đó Trịnh Trùng đã quá ốm yếu, sai em ruột là Trịnh Đỗ dụ Trịnh Xuân đến Quán Bạc (xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) để trao cho đại quyền.

Ngày 20 tháng 6 nǎm Quý Hợi (1623), Trịnh Tùng mất tại quán Thanh Xuân, huyện Thanh Oai. Trịnh Tráng cho đón linh cữu về Ninh Giang phát tang rồi sai 13 chiếc thuyền đưa linh cữu theo đường thủy về táng ở Thanh Hóa. Trịnh Tráng cũng rước vua Lê về Thanh Hóa để lo việc dẹp loạn.

Như vậy là trong 20 nǎm nắm quyền, Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà Mạc, khôi phục lại cơ đồ nhà Lê, nhưng cũng bắt đầu từ đây một kiểu cai trị tồn tại song song cả vua lẫn chúa.

Chúa Trịnh Tùng ngự ở Thǎng Long 33 nǎm nữa, tổng cộng cả quãng đời chinh chiến lẫn hòa bình, Trịnh Tùng cầm quyền 53 nǎm, khi mất đã 74 tuổi.

Vǎn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng (1623-1652)

Dư đảng của họ Mạc do Kính Khoan đang chiếm cứ đất cao Bằng nghe tin Trịnh Tùng chết, các con đánh nhau giành ngôi chúa, liền từ Cao Bằng kéo xuống Gia Lâm, người theo đông đến hàng vạn. Trịnh Tráng phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hóa.

Tháng 8 nǎm Quý Hợi (1623) Trịnh Tráng đem quân ra phá tan quân của Kính Khoan ở Gia Lâm. Kính Khoan một mình chạy thoát thân, trốn vào núi. Kinh thành lại được yên. Tráng lại rước vua Lê trở lại kinh đô. Mùa đông nǎm đó (1623) vua Lê phong Nguyên súy thống quốc chính Thanh Đô vương cho Trịnh Tráng.

Khi lên nắm quyền Trịnh Tráng đã cao tuổi (47 tuổi), từng trải việc quân việc đời nên trong chính sách cai trị, Tráng khéo léo vào mưu mô hơn các chúa trước. Để thắt chặt thêm quan hệ giữa nhà chúa với vua Lê; Trịnh Tráng đem con gái của mình (trước đã lấy chồng được bốn con với người chú họ của vua Lê) gả cho vua Lê, ép vua lập làm Hoàng hậu. Vua Lê đành chịu chấp nhận việc đó.

Nǎm Â't Dậu (1645), Trịnh Tráng tuổi đã già, xin vua Lê phong cho con thứ hai là Tây quận công Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chủ dinh chương quốc quyền binh, tả tưởng thái úy Tây Quốc công. Trịnh Tạc được chọn thay quyền cha giữ ngôi chúa. Sau quyết định này vài hôm, Trịnh Tráng bị cảm mạo, các con là Trịnh Sầm, Trịnh Lịch vì không được cha truyền ngôi bèn nổi loạn. Sau cả hai người con này đều bị bắt chém. Thời kỳ cầm quyền, Trịnh Tráng có chút công lao ngoại giao đáng kể là vua Minh từ chỗ chỉ phong tước An Nam đô thống sứ cho các vua Lê Trung Hưng, đến đây đã chịu phong cho Lê Thần Tông (đã truyền ngôi cho con lên làm Thái Thượng hoàng) làm An Nam quốc vương và mùa đông nǎm Tân Mão (1651) lại phong Trịnh Tráng làm phó vương.

Nǎm Đinh Dậu (1657), Trịnh Tráng mất, trải qua 30 nǎm cầm quyền ở phủ chúa, đươc vua Lê phong đến hết mức: Thượng chúa sư phụ Công cao thông đoán nhân thánh Thanh vương, chết 81 tuổi.


Hoằng Tổ Dương vương Trịnh Tạc (1653-1682)

Trịnh Tạc là con thú hai mà lại được cha chọn làm Nguyên súy chưởng quốc chính Tây Định vương từ nǎm Quý Tỵ (1653) khi Trịnh Tráng đang còn sống. Sự đảo lộn thứ tự giữa Trịnh Tạc và Trịnh Toàn đã tạo nên một mâu thuẫn ngấm ngầm giữa Toàn và Tạc. Lúc này, cuộc chiến giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong đang ngày càng quyết liệt. Trịnh Toàn đang nắm giữ binh quyền ở Nghệ An. Nǎm Bính Thân (1656) Trịnh Tạc sai Cǎn là con trai cả làm Thế tử lãnh chúc Tá quốc dinh phó đô tướng Thái Bảo Phú Quận công đem quân vào Nghệ An tǎng viện cho Trịnh Toàn và cũng để kiềm chế Trịnh Toàn. Ngày 16 tháng 4 nǎm Đinh Dậu (1657) trước khi qua đời, Trịnh Tạc cho người triệu Toàn về kinh đô mưu sát. Bộ hạ Toàn sợ bị vạ lây đã chạy sang hàng quân Nguyễn ở Đàng Trong, riêng Toàn không biết làm sao, đem toàn bộ voi ngựa, khí giới đến cửa quân của Trịnh Cǎn xin cháu đoái thương. Trịnh Cǎn không dám quyết định nói:
- Việc đã như thế, nên phải về kinh đợi mệnh. Toàn miễn cưỡng phải về kinh. Trịnh Tạc sai đình thần tra hỏi tống ngục cho đến chết. Quyền hành quân sự từ tay Trịnh Toàn được chuyển hết vào tay Trịnh Cǎn.

Sau thắng lợi dẹp được Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng tháng 9 nǎm Đinh Mùi (1667), Trịnh Tạc tự nhận công lao của mình bao trùm tất cả, càng lấn lướt vua Lê, tự gia phong Đại nguyên soái thượng sư Thái phụ Tây vương.

Tháng 7 nǎm Giáp Dần (1674), Trịnh Tạc xin vua Lê tiến phong cho con là Trịnh Cǎn làm Nguyên soái, tước Định Nam vương, nắm toàn quyền thay cha. Trịnh Cǎn tự xưng là Phó vương. Nǎm Tân Dậu (1682), Trịnh Tạc mất, con là Trịnh Cǎn nối giữ ngôi chúa. Trịnh Tạc nắm quyền 25 nǎm, trải qua 4 đời vua Lê. Thần Tông, Huyền Tông, Gia Tông và Hy Tông, thọ 77 tuổi.

Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Cǎn (1682-1709)

Trịnh Cǎn là con trưởng của Trịnh Tạc. Bằng nhiều cố gắng ngoại giao, chúa Trịnh đã buộc nhà Thanh trả lại một số thôn ấp vùng biên giới... Nǎm Quý Dậu (1693) Chúa Trịnh cũng bắt đầu chỉnh đốn lại thể vǎn thi ở các khoa trường và bắt đầu đặt chức quan quản lãnh công việc ở Quốc Tử Giám, làm sổ "tu tri" để quản lý mọi mặt các xã thôn trong nước. Trịnh Cǎn cũng rất quan tâm đến việc chuẩn bị cho người kế nghiệp, nhưng về việc này, chúa gặp nhiều lận đận: Nǎm Giáp Tý (1684), Trịnh Cǎn phải phong cho con thứ là Bách làm tiết chế thay cho con cả là Vĩnh đã chết, Bách được quyền mở phủ đệ riêng và chuẩn bị thay thế cha. Không may, nǎm Đinh Mão (1687) Trịnh Bách lại chết sớm. Trịnh Cǎn lại phong cho Trịnh Bính là cháu nội đích tôn (con Trịnh Vĩnh). Sau 6 nǎm, nǎm Quý Mùi (1703), Trịnh Bính cũng chết, Trịnh Cǎn lại phải phong cho chắt nội (con cả của Trịnh Bính) là Trịnh Cương làm tiết chế An Quốc công, lúc vừa 18 tuổi. 

Tháng 3 nǎm Giáp Thân (1704), Trịnh Luân và Trịnh Phất làm phản mưu giết Tiết chế Trịnh Cương lấy lý rằng Luân và Phất là con Trịnh Bách tiết chế đã chết, có quyền nối ngôi, huống chi Cương chi là chắt. Sau nhờ sự mật tâu kịp thời của Nguyễn Công Cơ nên qua được, Luân và Phất bị giết. Nguyễn Công Cơ được thǎng Hữu thị lang bộ Công.
Nǎm Kỷ Sửu (1709) Trịnh Cǎn mất. Chắt là Trịnh Cương lên nối ngôi. Trịnh Cǎn giữ phủ chúa 28 nǎm, mất lúc 77 tuổi, truy tôn là Khang Vương, hiệu là Chiêu Tổ.

Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (1709-1729)

Trịnh Cương là con trưởng của Tấn Quan vương Trịnh Bính, là chắt của Trịnh Cǎn, được chọn để nối nghiệp chúa. Sự lựa chọn này vừa là theo nguyên tắc trực hệ vừa do hai đại thần có tiếng thời Lê- Trịnh là Nguyễn Quý Đức và Đặng Đình Tướng tiến cử. Nǎm Kỳ Sửu (1709), Trịnh Cǎn mất, Trịnh Cương nối ngôi gia phong là Nguyên soái tổng quốc chính An Dô vương.  

Tháng 9 nǎm Giáp Ngọ (1714) Trịnh Cương lại được tiến phong Đại Nguyên soái tổng quốc chính Thượng sư An vương. 

Thời kỳ ở ngôi chúa, Trịnh Cương rất chǎm chỉ lo toan việc trị nước.  Tháng 10 nǎm Đinh Mùi (1727) Trịnh Cương phong cho con là Trịnh Giang làm tiết chế, tước Uy quận công, mở phủ đệ riêng gọi là phủ Điện Quốc.

Về già, Trịnh Cương thường đi tuần du vãn cảnh các nơi, cho sửa dựng nhiều chùa ở núi Độc Tôn và Tây Thiên để đến du ngoạn. Cổ Bi vốn là đất nổi tiếng vùng Kinh Bắc, tiếp giáp xã Như Kinh là quê mẹ của Trịnh Cương nên chúa về thǎm luôn, Chúa còn cho xây phủ đệ mới tại đó, lấy tên là phủ Kim Thành và có ý định đóng phủ chúa ở đấy.

Nǎm Kỷ Dậu (1729) Trịnh Cương đi chơi chùa Phật tích rồi Như Kinh, bị bệnh, chết ngay tại đó, quan quân bí mật đưa về phù phát tang. Vị chúa có nhiều tâm huyết với công cuộc cải cách kinh tế, chính trị này mất ở tuổi 44, cầm quyền 20 nǎm. Về sau, con cháu truy tôn chúa là Nhân vương, hiệu là Hi tổ.

Dụ Tổ Thuận vương Trịnh Giang (1729-1740)

Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương. Khi Giang còn làm Thế tử, phó của Giang là Nguyễn Công Hãng đã dâng mật sớ nhận xét rằng: Giang là người ươn hèn, không thể gánh vác được ngôi chúa. Trịnh Cương đột ngột mất, Trịnh Giang vói tư cách Thế tử lên nối ngôi chúa. 

Tháng 4 nǎm Canh Tuất (1730), Giang tự tiến phong là Nguyên soái, thống quốc chính Uy Nam vương. Sau khi lên ngôi, Trịnh giang tôn bà nội là thái phi Trương Thị (vợ Trịnh Bính, người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, mẹ Trịnh Cương) làm Thái tôn Thái phi, mỗi khi truyền đạt lời của Thái tôn Thái phi thì gọi theo húy chỉ, tôn mẹ đẻ làm Thái phi (người xã Mi Thử, huyện Đường Yên); truy tôn ông ngoại là Tuấn quận công Vũ Tất Tố lên Tuấn Trạch công và đích mẫu Trịnh Thị (vợ cả của Trịnh Cương nhưng không có con, đã mất) làm Thái phu nhân, lập đền thờ ở kinh đô.

Sau 6 nǎm giữ quyền binh, nǎm Bính Thìn (1736) Trịnh Giang phong cho em là Doanh 17 tuổi làm Tiết chế thủy bộ chủ quân, chức Thái úy, tước Ân Quốc công, cho mở phủ Lượng Quốc. Mỗi tháng ba lần, Doanh thay Giang triều kiến trǎm quan ở Trạch Các để nghe tâu trình công việc. Giang rảnh tay vào ǎn uống, chơi bời. Giang cho xây dựng rất nhiều cung quán, chùa chiền rất nguy nga và tốn kém: Chùa Hồ Thiên, hành cung Quế Trạo, Từ Dương, phủ đệ ở các làng họ ngoại như làng Tứ Dương, làng Mi Thử. 

Trịnh Giang lao vào ǎn chơi dâm loạn nên sức khỏe ngày càng kém sút. Giang còn mắc tội loạn dâm với cung nữ của cha là Kỳ Viên họ Đặng, sau Vũ thái phi biết chuyện, bắt ép Đặng thị phải tự tử. Một hôm bất ngờ Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh "Kinh quý" (chứng tâm thần bất định, hoảng hốt và hay sợ hãi). Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ nói dối rằng: đấy là vì dâm dục mà bị ác báo. Muốn không bị hại chỉ có cách là trốn xuống đất. Nhân đó bọn chúng đào đất, làm hầm cho chúa, gọi là cung Thưởng Trì. Từ đó Trịnh Giang ở hẳn dưới hầm, không hề ra ngoài. Thế là Hoàng Công Phụ (là hoạn quan được Giang tin yên) càng có điều kiện để lộng quyền. Quan quân muốn trừ khử lũ hoạn quan này, nên khắp các vùng dân chúng đã nổi lên: Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Sơn Nam có Hoàng Công Chất... dân quê đeo bừa, vác cuốc đi theo rất đông, có nơi đến hàng vạn người, triều đình bất lực, không trị nổi.

Trước tình hình nguy ngập ấy, Thái phi Vũ thị đã cùng triều thần bàn cách lập Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trấn an lòng người. Nǎm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh thay quyền ngôi chúa, lấy hiệu là Minh Đô vương, tiến tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương. Như vậy Trịnh Giang cầm quyền được 10 nǎm (1730- 1740) sau đó lánh ở cung Thưởng Trì thêm 20 nǎm nữa mới mất, thọ 51 tuổi, truy tôn là Thuận vương hiệu là Dụ Tổ.

Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (1740-1767)

Trịnh Doanh là con thứ 3 của Trịnh Cương. Giang lên cầm quyền ở phủ chúa đã lâu mà chưa có con thấy em là Doanh có vǎn tài võ lược mới phong làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chủ quân, thái úy An Quốc công, cho mở phủ đệ riêng để phòng có người nối ngôi. Vì không thiết gì đến chính sự nên từ nǎm Bính Thìn (1736) Giang đã trao quyền nhiếp chính cho Doanh. 

Trịnh Doanh chǎm chỉ lo việc chính sự: cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố cáo việc làm sai trái của quan lại, định lệ các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, mỗi ngày lần lượt thứ tự hai người vào phủ chúa để hỏi về chính sự và mưu sách việc quân việc nước.

Nǎm Ất Hợi (1755), vua Lê gia phong cho Trịnh Doanh là Thượng sư Thượng phụ anh đoán vǎn trị võ công Minh vương. Tháng 12 nǎm Â't Hợi (1755), Trịnh Doanh muốn thiên đô sang Gia Lâm, bèn hạ lệnh sửa sang xây dựng cung miếu ở Cổ Bi. Tuy vậy vẫn chưa dọn sang vì Doanh vốn say mê với chính sự.

Một điều đáng chú ý là mỗi khi tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh rất coi trọng thực tài -Chúa là người đầu tiên quy định: bất cứ ai, trước khi bộ Lại bổ dụng cất nhắc, phải dẫn vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc làm, ai có khả nǎng mới trao cho chức quyền. Chúa thưởng phạt rất công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, tiêu biểu là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ...

Lịch sử ghi nhận những nǎm Trịnh Doanh cầm quyền ở Bắc Hà là những nǎm đất nước ổn định và thịnh đạt. Tháng giêng nǎm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm nối ngôi. Hai mươi tuổi Trịnh Doanh lên nắm quyền, mất lúc 48 tuổi, ở phủ chúa 28 nǎm.

Thánh Tổ Thịnh vương Trịnh Sâm (1767-1782)

Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh. Nǎm Â't Sửu (1745) Sâm được lập làm Thế tử. Trịnh Doanh tỏ ra cẩn trọng việc nuôi dạy con, bổ dụng hai tiến sĩ danh tiếng là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm. Tháng 10 nǎm Mậu Dần (1758) Trịnh Doanh phong cho con là Sâm làm Tiết chế thủy bộ chủ quân, Thái úy, Tĩnh Quốc công, mở phủ Lượng Quốc và hết thảy công việc triều chính được giao hẳn cho Sâm.
Mùa xuân nǎm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm nối ngôi, tiến phong là Nguyên soái Tổng quốc chính, Tĩnh đô vương. 

Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán. Từ nhỏ, Sâm đã được học đến nơi dến chốn: có đủ tài vǎn võ, đã xem khắp kinh sứ và biết làm thơ. 

Tại triều, ngay nǎm đầu Sâm lên ngôi, em là Trịnh Lệ mưu giết để thoán đoạt. Lệ cũng là người sáng suốt, có cơ mưu và trí dũng. Gặp lúc cha chết, Lệ mật hẹn với Dương Trọng Khiêm và Nguyễn Huy Bá làm gia khách định ngày giết Sâm. Việc bị lộ, Phạm Huy Cơ và đồ đáng bị giết, Trịnh Lệ bị tống giam.

Ngay sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm đã tìm cớ sát hại thái tử Duy Vĩ. Nǎm Kỷ Sửu (1769), sau hai nǎm lên ngôi vì ghen ghét tài nǎng, đức độ và địa vị của Thái tử Duy Vĩ. Sâm đã vu tội cho Thái tử, sai người bắt giữ, truất ngôi và tống giam đến chết trong ngục.
Nǎm Canh Mũi (1770), sau khi đánh tan Lê Duy Mật, buộc Duy Mật tự tử, Trịnh Sâm kiêu mãn, cho mình có công lớn, bốn cõi yên ổn hơn hẳn mọi đời chúa trước, nên tự tiến phong là Đại nguyên soái tổng quốc chính, thượng sư Thượng phụ, Duệ đoán vǎn công võ đức Tĩnh vương.

Tháng 9 nǎm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, thọ 44 tuổi, 16 nǎm ở ngôi chúa.

Đoan Nam vương Trịnh Tông (1782-1786)

Trịnh Tông còn có tên nữa là Trịnh Khải, là con trai đầu của Trịnh Sâm và cung tần Dương Thị Ngọc Hoan, người làng Long Phúc, huyện Thạch Hà. Sâm mất, Huệ và Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa thì một bề tôi của Trịnh Tông là Dự Vũ dựa vào kiêu binh nổi dậy lập Tông lên ngôi chúa. Nạn kiêu binh hoành hành khắp kinh kỳ, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ.

Tháng 6 nǎm Bính Ngọ (1786), đang lúc phủ chúa rối ren là thế thì nghĩa quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ với danh nghĩa "diệt Trịnh phò Lê" kéo ra Bắc Hà. Chống cự lại rất yếu ớt, quân Trịnh tan rã, bỏ chạy. Tướng Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Lệ rút chạy lên phía Bắc. Trịnh Tông mặc nhung phục, ngồi voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, quân sĩ nhìn nhau không ai nghe theo. Chúa Trịnh phải một mình bỏ chạy lên Sơn Tây. Chúa gặp được Lý Trần Quán ở xã Hạ Lôi, nhờ Quán giúp đỡ. Trần Quán nhờ người học trò là Nguyễn Trang nói dối là giúp tham tụng Bùi Huy Bích lánh nạn. "Nguyễn Trang biết đích là chúa Trịnh mà Tây Sơn đang truy lùng, liền cùng tay chân bắt Trịnh Tông nộp ngay cho quân Tây Sơn. 

Trên đường giải đến quân Tây Sơn. Trịnh Tông dùng dao tự tử. Trang đem xác Tông nộp cho Tây Sơn. Nguyễn Huệ sai người khâm liệm tống táng Trịnh Tông chu đáo rồi bổ dụng Nguyễn Trang làm trấn thủ Sơn Tây, tước Tráng liệt hầu. Trần Quán lui về nhà trọ, bảo học trò: "Ta là bầy tôi mà làm lầm lỡ chúa, tội chi có chết mới tỏ được với chúa". Xong, sai người đào huyệt, mặc đủ mũ áo, tự nằm vào quan tài, nhờ người chôn cất. Trịnh Tông làm chúa chưa được 4 nǎm thì bị chết, thọ 24 tuổi.

Án Đô vương Trịnh Bồng (9-1786 đến 9-1787)

Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác họ của Trịnh Tông. Lúc đầu Bồng được phong làm Côn luận công. Trịnh Tông thua, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Vǎn Giang (Hải Dương) chiêu tập binh mã đợi thời cơ. Khi Nguyễn Huệ cùng anh là Thái Đức Nguyễn Nhạc rút về Nam, Trịnh Lệ liền đem quân qua đò Thanh Trì kéo về chiếm lại phủ chúa. Đang đêm, Trịnh Lệ cho nổi trống triệu tập triều quan đến bàn việc lập Lệ lên ngôi chúa. Việc hấp tấp, vội vàng đã không thành. Vua Lê, sau khi gắn bó với Tây Sơn không muốn chia quyền cho họ Trịnh như trước nữa. Quan hệ giữa vua Lê và Trịnh Lệ rất cǎng thẳng, Trịnh Lệ định mưu thoán nghịch.

Giữa lúc ấy, một số người thân cận xui Trịnh Bồng viết biểu xin về chầu vua. Trịnh Bồng bấy giờ đã 40 tuổi tính nết hiền từ, khoan hậu được nhiều người mến mộ. Cuối đời, Trịnh Sâm, vì việc con trưởng, con thứ khó quyết, có lúc Sâm định lập Trịnh Bồng để trả lại ngôi. chúa cho anh con nhà bác. Vì thế Sâm cho Thị Huệ nuôi Trịnh Bồng để phòng thay Cán nếu Cán mệnh mệt. Trịnh Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò Côn quân công Trịnh Bồng, đã vào tận nhà đề thúc ép và đón rước, Bồng dã một mực từ chối. Lúc quân Tây Sơn kéo ra, Bồng chi đem theo một đứa ở, một tên lính, lánh vào huyện Chương Đức, có định chuyện đi tu. Biết Trịnh Lệ làm nhiều điều ngang ngược, trái phép, một số quan tìm gặp, khuyên Trịnh Bồng về triều giúp vua.

Thấy Trịnh Bồng vào triều, triều thần theo giúp, thanh thế Trịnh Bồng ngày càng lớn. Bồng chưa có ý lấn quyền vua Lê nhưng do bộ hạ thúc giục nên đã nghe theo.
Bọn Đinh Tích Nhưỡng lại muốn Trịnh Bồng làm vương tại phủ chúa đời chúa trước kia nên đã nhiều lần gan lì sang xin vua phong vương cho Trịnh Bồng. Ngược lại vua Lê kiên quyết từ chối. Cuối cùng do sức ép của Đinh Tích Nhưỡng kẻ nắm binh quyền, bất đắc dĩ, vua phải y theo, phong Bồng làm Nguyên soái, tổng quốc chính, Yến Đô vương.

Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển được công việc, do đó chính sự lọt vào tay Đinh Tích Nhưỡng. Chúng khuyên Bồng lập lại dù lệ bộ ở phủ chúa như xưa, phủ chúa thành một triều đình riêng. Từ đó vua và chúa lại càng mâu thuẫn. Vua Lê định cầu viện quân ngoài trấn vào kinh dẹp Trịnh, Trịnh Bồng biết, dọa giết, lập vua khác. Tình thế hết sức nguy khốn. Vua Lê buộc phải cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân về giúp. Tướng lĩnh Trịnh bỏ chạy, Trịnh Bồng trốn chạy về xã Dương Xá rồi Quế Võ ở Bắc Ninh. Rồi từ Bắc Ninh, Trịnh Bồng chạy về Hải Dương, Quảng Yên. Thái Bình, nhờ thổ hào địa phương giúp đỡ quân lương mưu đánh lại Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng mấy lần giao chiến đều thất bại. Về sau, Bồng chạy về viết biểu gửi vua Lê: "Kiếp này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nước nhà lắm nạn, lạm dự vào dòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc Dâng biểu trần tình, mong được Hoàng thượng cho về triều kiến...

Nhận được biểu Trịnh Bồng. Vua Lê sai người đi đón Trịnh Bồng. Nhưng chưa kịp gặp Bồng thì quân Hữu Chỉnh đã đánh tan quân Trịnh, Đinh Tích Nhưỡng và Phạm Tôn Lân bỏ chúa mà đi, Tích Nhưỡng trong tay không còn quân lính vũ khí gì nữa. Trịnh Bồng không còn ai giúp, phải sống lẩn lút một mình ở ven biển, tình cảnh rất điêu đứng. 

Thế rồi Trịnh Bồng gột sạch bụi trần tự xưng là Hải Đạt thiền sư dạo khắp các vùng Lạng Sơn, Cao Bằng. Bấy giờ có người học trò dất Kinh Bắc tên là Kiền, chạy loạn lên Lạng Sơn. Kiền gặp Hải Dạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, liền biết đó là chúa Trịnh, bèn bảo với bọn phiên thần ở vùng đó là Hà Quốc Kỳ và Nguyễn Khắc Trần đến gặp, đón Hải Đạt thiền sư về nhà. Họ xin được lấy danh nghĩa chúa để triệu tập binh mã quân lương đánh giặc. Bọn Kỳ và Trần đều là những kẻ tầm thường chỉ lợi dụng danh nghĩa chúa đề làm điều phi pháp. Nhân dân không thể chịu được, bèn nổi lên giết Kỳ và Trần rồi đuổi chúa Trịnh đi Hữu Lũng rồi từ đó không ai gặp chúa đâu nữa.

Họ Trịnh từ Thái vương Trịnh Kiểm truyền đến Trịnh Sâm vừa được 8 đời thì xảy ra biến loạn, đúng với lời sấm đoán về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh: "Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời trong nhà dấy vạ". Đến án Đô vương Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Trước sau 11 đời trải 248 nǎm.


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên NGỌC BẢO
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh
Thụy hiệu  
Ngày mất 1586 Bính Tuất  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

Vương Thái Phi

      Bà huý là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, chị của đức Thái Tổ, Tiểu sử không rõ. Theo gia phả họ Nguyễn ở Bồng Trung, mẹ bà họ Đỗ.

Năm Quý Tỵ (1533), đức Triệu Tổ gả bà cho Trịnh Kiểm. Đức Thái Tổ bị Trịnh Kiểm ghen ghét nhiều lần muốn mưu hại. Bà biết ý thường khéo dung lời khuyên ngăn chặn, tìm cách xin cho Thái Tổ vài trấn thủ Thuận Hoá.

Mùa thu năm Bính Tuất (1586), cung chúa Trịnh bị hoả tai, bà bị nạn mà mất. Bà được truy tặng là Vương Thái Phi, thuỵ là Từ Nghi.

Bà sinh ra Trịnh Tùng kế nghiệp Trịnh Kiểm làm Chúa phương Bắc

Các anh em, dâu rể:
   NGUYỄN UÔNG
   NGUYỄN HOÀNG
Con cái: Không rõ
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.