GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
MINH
MẠNG
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: NGUYỄN HOÀNG
Đời thứ: 2
Người trong gia đình
Tên NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
Tên thường
Tên Tự
Là con thứ 1
Ngày sinh 16/8/1563 28/7 Quý hợi
Thụy hiệu HY TÔNG HIẾU VĂN HOÀNG ĐẾ  
Ngày mất 19/11/1635 10AL  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

         Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của đức Triệu Tổ Nguyễn Hoàng và Hoàng Hậu họ Nguyễn. Ngài sinh ngày 28 tháng 7 năm Quí hợi (16-8-1563).

        Tương truyền rằng khi Hoàng Hậu có thai. chiêm bao thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữ "Phúc". Nhiều người đề nghị lấy chữ "Phúc" đật tên con thì Bà cho rằng: Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc. Bà bèn đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên, nhánh họ Nguyễn chúng ta đổi thành Nguyễn Phúc bắt đầu từ đấy.

        Năm 22 tuổi (1585), lúc đang cờn làm Thế tử, ngài đánh tang hai truyền giặc biển vào đánh phá ở Cửa Việt, đức Thái Tổ cà mừng nói rằng "Con ta thực là anh kiệt".

        Năm Nhâm dần (1602), ngài được cử đến trấn thủ dinh Quảng Nam.

        Thán 6 năm Quí sửu (1613) đức Thái Tổ băng, các quan vâng di chiếu tôn ngài làm Thống lãnh Thủy bộ Chư Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái bảo Thụy Quân công. Bấy giờ ngài đã 51 tuổi. Vua Lê Kính Tông sắc phong ngài làm trấn thủ hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam gia hàm Thái bảo, tước Quận công.

        Sau khi lên ngôi, ngài sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu đâu cũng tin phục, thời bấy giờ người ta thường gọi ngài là Chúa Sãi.

        Trong các năm Giáp dần (1614) và Ất mão (1615) ngài tổ chức lại việc cai trị, đặt tam ti và các chức lệnh sử để trông coi mọi việc, định qui chế các chức vụ ở phủ huyện, phân chia ruông đất ở thôn xã v.v...

        Năm Canh thân (1620) hai em của ngài là các Chưởng cơ Hiệp và Trạch thông đồn với họ Trịnh, chiếm kho Ải Tử đấp lũy Cồn Cát để làm phản. Ngài sai người đến dụ dỗ nhưng hai ông không chịu nghe. Khi hai ông Hiệp và Trạch bị Nguyễn Phúc Tuyên bắt được, ngài trông thấy chảy nước mắt nói: "Sao hai em nở trái bỏ luân thường?" Hai ông cúi đầu chịu tội. Ngài muốn tha nhưng triều thần không chịu bèn sai giam vào ngục. Ngài thấy quân Trịnh vô cớ khởi binh nên từ đấy không chịu nộp thuế cốn nữa.

        Năm Tân dậu (1621) quân Man thuộc Ai Lao cướp bóc ở biên thùy, ngài sai quân đánh bắt, nhưng lấy đức cảm  hóa tha cho về nên chúng cảm phục, từ đấy không quấy nhiễu nữa.

        Để tỏ tình thân thiện cới lân bang, năm Canh thân (1620) ngài gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II. Năm Quí hợi (1623) một phái  bộ miền Nam đi sứ quan Chân Lạp xin với vua Chey-Chetta II nhừng lại một dinh điền ở Mô Xoài gần Bà Rịa ngày nay(1), vua Chân Lạp phải bằng lòng. Ngoài ra, vua còn cho ngườiViệt đến canh tác tại vùng đó.

        Năm Bính dần (1626) Dinh được dời đến làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên).

        Không những có tài trị nước, ngài còn là người khiêm cung, biết giữ lễ. Như khi nghe Trịnh Tùng chết, các con tranh giành ngôi thứ, ngài báo các tướng: "Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò Lê, nhưng đánh lúc người có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất vũ. Huống chi ta với Trịnh có nghĩa thông gia." Vì vậy hào kiệt các nơi theo về với ngài rất đông: Đào Duy Từ, Nguyễn Phúc Kiều, Nguyễn Đình Hùng, Nguyễn Hữu Tấn... đều là những danh tướng văn võ toàn tài.

        Năm Đinh mão (1627) Trịnh Tráng đem quân vào đánh, bị thua, phải rút về. Đến năm Kỷ tỵ (1629), Trịnh Tráng lại muốn xâm lược miền Nam bèn sai sứ vào sắc phong để có cớ tiến quân. Đào Duy Từ khuyên rằng: "Đây là họ Trịnh mượn sắc lệnh vua Lê để nhử ta...Chi bằng hảy tạm nhận cho họ không ngờ để ta lo việc phòng thủ rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì ta được nữa."

        Sau đó, Đào Duy Từ hiến kế đắp các lũy Trường Dục, Nhật Lệ và Trường Sa tạo thành một thế vững chắc cho xứ Đàng Trong.

        Năm Canh Ngọ (1630), Đào Duy Từ dân kế kế làm mâm hai đáy trả lại sắc cho chúa Trịnh (2) rồi khuyên ngài đánh lấy đất Nam Bố Chính (huyện Bố Trạch ngày nay) để lấy sông Gianh làm biên giới thiên nhiên cho vững cõi Nam.

        Năm Tân mùi (1631) ngài gả công chúa Ngoc Khoa cho vua Chiêm là Pôrômê, nhờ đó có sự hòa hiếu giữa hai nước Chiêm, Việt.

        Năm Quí dậu (1633) Trịnh Tráng rước vua Lê đem quân vào đánh nhưng bị thua phải rút về.

        Năm Ất hội (1635) ngày 10 tháng 10 (19-11-1635) ngài mệt, triệu Thế Tử và Nguyễn Phúc Khê vào chầu, gởi gấm Thế Tử cho ông Khê rồi băng. Ngài ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi.

*
* *

        Đức Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế là vị chúa Nguyễn thứ hai trị vì ở miền Nam.

        Ngài là vị chúa đầu tiên xây dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn với một ý chí cương quyết, tạo nên một xứ Đàng Trong độc lập tự chủ. Ngài chình đốn việc cai trị, củng cố về mặt quốc phòng, biết dùng người tài giỏi để chăm lo việc nước nên nhân dân được an cư lạc nghiệp. Nhiều lần quân Trịnh vào đánh đều ôm hận rút về.

        Ngài thuộc đời thứ ba của họ Nguyễn Phúc và cũng là vị Chúa đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Ngài khai sán ta hệ III hiện nay co 2 phòng:

                    1. Phòng một tức là phòng Khánh Quận Công.

                    2. Phòng mười tức là phòng Vĩnh 

 - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

        Lúc đầu, lăng ngài táng tại huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), sau cải táng về vùng núi thuộc làng Hải Cát huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Diễn. Ngài được thờ ở Thái Miếu, án thứ nhất bên tả (3).

        Thế tử lên ngôi dân thụy hiệu là "Đại Đô Thống Trấn Nam Phương Tổng Quốc Chính Dực Thiện Tuy  Du Thụy Dương Vương".

        Đời Vũ Vương truy tôn: "Tuyên Tổ Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiệntuy Du Hiếu Văn Vương".

        Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: "Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu Văn Hoàng Đế." Miếu hiệu là Hy Tông. 

 


Hệ Ba có 2 phòng:

- Phòng Ngài Khánh Quận Công, đền thờ ở làng Dương Nổ.

- Phòng Ngài Vinh Quận Công, đền thờ ở làng Ngọc Anh. Cả 2 đền thờ đều thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên NGUYỄN THỊ GIAI
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh Mậu dần (1578)
Thụy hiệu Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Hậu  
Hưởng thọ 53  
Ngày mất 9/11 Canh ngọ (12-12-1630)  
Nơi an táng núi Chiêm Sơn huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

                   

                    Bà húy là Nguyễn Thị Giai, sinh năm Mậu dần (1578). Bà là trưởng nữ của Khiêm Vương Mạc Kính Điển, người làng Nghi Dương (tỉnh Hải Dương). Khi thân sinh bà bị tử trận, bà theo chú (Mạc Cảnh Huống) và gia quyến vào Nam ần cư ở chùa Lam Sơn tỉnh Quảng Trị. Phu nhân ông Huống là dì của đức Hy Tông vì thế bà được tiến vào hầu ở nơi tiềm để (chỗ ở của Thế tử khi chưa lên ngôi).

                    Bà tính nết hiền thục, cử chỉ đoan trang, thanh nhã. Lời nói, hành động đều đúng khuôn phép nên đức Hy Tông rất thương yêu và cho đổi thành họ Nguyễn.

                    Bà mất ngày mồng 9 tháng 11 năm Canh ngọ (12-12-1630), thọ 53 tuổi, được truy tặng là Doanh Cơ, thụy là Nhã Tiết. Đời Vũ Vương bà được truy tôn: "Huy Cung Từ Thận Thuận Phi".

                    Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn: "Huy Cung Từ Thận Ôn Thục Thuận Trang Hiếu Văn Hoàng Hậu". Lăng táng tại núi Chiêm Sơn huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diễn. Bà dược phối thờ với Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế tại Thái Miếu.


Các anh em, dâu rể:
   NGUYỄN HÀ
   NGUYỄN HÁN
   NGUYỄN THÀNH
   NGUYỄN DIỄN
   NGUYỄN HẢI
   NGUYỄN PHÚC HIỆP
   NGUYỄN PHÚC TRẠCH
   NGUYỄN PHÚC KHUÊ
   NGUYỄN PHÚC DƯƠNG
   NGỌC TÚ
   NGỌC TIÊN
Con cái:
       NGUYỄN PHÚC KỲ
       NGUYỄN PHÚC LAN
       NGUYỄN PHÚC ANH
       NGUYỄN PHÚC TRUNG
       NGUYỄN PHÚC AN
       NGUYỄN PHÚC VĨNH
       NGUYỄN PHÚC LỘC
       NGUYỄN PHÚC TÚ
       NGUYỄN PHÚC THIỆU
       NGUYỄN PHÚC VINH
       NGUYỄN PHÚC ĐÔN
       NGỌC LIÊN
       NGỌC VÂN
       NGỌC KHOA
       NGỌC ĐĨNH
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.